ǎn uống và sức khỏe càng ngày càng được chú ý và có nhiều nghiên cứu chứng minh sự liên quan chặt chẽ giữa ǎn uống và sức khỏe. ǎn uống không chỉ là đáp ứng nhu cầu cấp thiết hàng ngày, mà còn là biện pháp để duy trì và nâng cao sức khỏe và tǎng tuổi thọ.
Vấn đề ǎn đã được đặt ra từ khi có loài người, lúc đầu chỉ nhằm giải quyết chống lại cảm giác đói và sau đó người ta thấy ngoài việc thỏa mãn nhu cầu bữa ǎn còn đem lại cho người ta niềm vui. Ngày nay vấn đề ǎn còn liên quan đến sự phát triển và là yếu tố quan trọng cho sự phát triển cho cộng đồng, khu vực và cả một đất nước. Đi đầu trong nghiên cứu vấn đề ǎn uống và sức khỏe là các thầy thuốc. Qua quan sát và nghiên cứu đã chứng minh nhiều yếu tố ǎn uống liên quan đến bệnh tật và sức khỏe.
I. LịCH Sử PHáT TRIểN CủA KHOA HọC DINH DƯỡNG
1. Những quan niệm trước đây:
Từ trước công nguyên các nhà y học đã nói tới ǎn uống và cho ǎn uống là một phương tiện để chữa bệnh và giữ gìn sức khỏe. Hypocrát (460-377) trước công nguyên đã chỉ ra vai trò của ǎn bảo vệ sức khỏe và khuyên phải chú ý, tùy theo tuổi tác, thời tiết, công việc mà nên ǎn nhiều hay ít, ǎn một lúc hay rải ra nhiều lần. Hypocrat nhấn mạnh về vai trò ǎn trong điều trị. ông viết "Thức ǎn cho bệnh nhân phải là một phương tiện điều trị và trong phương tiện điều trị của chúng ta phải có dinh dưỡng". ông cũng nhận xét "Hạn chế và ǎn thiếu chất bổ rất nguy hiểm đối với người mắc bệnh mạn tính".ở nước ta Tuệ Tĩ nh thế kỉ thứ XIV trong sách "Nam dược thần hiệu" đã đề cập nhiều đến tính chất chữa bệnh của thức ǎn và có những lời khuyên ǎn uống trong một số bệnh và ông đã phân biệt ra thức ǎn hàn nhiệt. Hải Thượng Lãn ông một danh y Việt Nam thế kỉ XVIII cũng rất chú ý tới việc ǎn uống của người bệnh. ông viết Có thuốc mà thông có ǎn uống thì cũng đi đến chỗ chết. Đối với người nghèo không những ông thǎm bệnh, cho thuốc không lấy tiền mà còn trợ giúp cá gạo và thực phẩm cần thiết cho người bệnh. Trong cuốn Nữ Công Thắng Lãm còn ghi 200 món ǎn.
2. Các mốc phát triển của dinh dưỡng học:
Sidengai người Anh có thể coi là người thừa kế nhưng ý tưởng của Hypocrat, ông đã cho rằng "Để nhằm mục đích điều trị cũng như phòng bệnh trong nhiều bệnh chỉ cần cho ǎn những chế độ ǎn thích hợp và sống một đời sống có tổ chức hợp lý, Sidengai cũng chống lại sự mê tín thuốc men và yêu cầu lấy bếp thay phòng bào chế ". Cùng thời với ông còn có Hacvay một người tìm ra tuần hoàn máu trong cơ thể. Hacvay cũng rất chú ý đến chế độ ǎn (diet) trong đó còn một chế độ ǎn hạn chế mở trong một số bệnh đến nay được gọi là chế độ ǎn Bentinh tên một bệnh nhân của Hacvay sau khi ǎn điều trị có kết quả đã tuyên truyền rất nhiêu chế độ ǎn này.
Từ cuối thế ky XVII những nghiên cứu về vai trò sinh nǎng lượng của thức ǎn với những công trình của Lavoadie (1743-1794) đã chứng minh thức ǎn vào cơ thể được chuyển hóa sinh nǎng lượng.
Liebig (1803-1873) đã có những công trình nghiên cứu chứng minh trong thức ǎn những chất sinh nǎng lượng là protein, lipit và gluxit. Đồng thời có Magendi nghiên cứu vai trò của Protein rất quan trọng đối với sự sống sau này, nǎm 1838 Mulder đã đề nghị đặt tên chất đó là protein. Nhưng nghiên cứu về cân bằng nǎng lượng Voit (1831-1908) của P.Rubner (1854-1932) đã chế tạo ra buồng đo nhiệt lượng và chứng minh được định luật bảo toàn nǎng lượng áp dụng cho cơ thể sống.
Những nghiên cứu về vitamin mở đầu gắn liền với bệnh hoại huyết của thủy thủ mà Giem Cook đã khuyên là chế độ ǎn của thủy thủ cần uống nước chanh hoa quả (1728-1779). Sau đó là những nghiên cứu của Eikman (1858-1930) đã tìm ra nguyên nhân của bệnh Beriberi vào nǎm 1886 ở đảo Java Indonexia sau đó 30 nǎm, nǎm 1897 J.A.Funk đã tìm ra chất đó là vitamin B1. Tiếp theo các công trình nghiên cứu Bunghe và Hopman nghiên cứu về vai trò của muối khoáng .
Noocden nǎm 1893 tổ chức ở Beclin lớp học cho các bác sĩ về vấn đề chuyển hóa, vấn đề ǎn cho bệnh nhân. Cùng thời gian này (1897) Páplốp đã xuất bản Bài giảng về hoạt động của các tuyến tiêu hóa chính. Công trình của nhà sinh lý học thiên tài Nga đã đặt ra trước thế giới con đường hoàn toàn mới mẻ và độc đáo về cách thực nghiệm và lâm sàng trong lĩnh vực sinh lý và bệnh lý bộ máy tiêu hóa và có một ảnh hưởng rất lớn trong phát triển ngành dinh dưỡng.
Từ cuối thế kỷ 19 tới nay, những công trình nghiên cứu về vai trò của các axít amin các vitamin, các axit béo không no, các vi lượng dinh dưỡng ở phạm vi tế bào, tổ chức và toàn cơ thể đã góp phần hình thành, phát triển và đưa ngành dinh dưỡng lên thành một môn học. Cùng với những nghiên cứu về bệnh suy dinh dưỡng protein nǎng lượng của nhiều tác giả như Gomez 1956, Jelliffe 1959, Welcome 1970, Waterlow 1973. Những nghiên cứu về thiếu vi chất như thiếu vitamin A và bệnh khô mắt (Bitot 1863, M. Collum 1913, Block 1920 ), thiếu máu thiếu sát, thiếu kẽm cũng có nhiều nghiên cứu giải thích mối quan hệ nhân quả và các chương trình can thiệp ở cộng đồng. Không những chế với sự phát triển của ngành dinh dưỡng và y học cộng đồng hướng tới sức khỏe cho mọi người dân đến nǎm 2000 đã có cả một chương trình hành động về dinh dưỡng.
II. Mối quan hệ giữa dinh dưỡng và khoa học thực phẩm
Những nghiên cứu dinh dưỡng cơ bản đã có những phát triển đáng kể, đưa ra được nhu cầu đề nghị thích hợp. Tuy nhiên để đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng cho mọi người cần có sự phối hợp liên ngành để đảm bảo cung cấp lương thực và thực phầm đáp ứng nhu cầu. Trước tiên là giải quyết vấn đề sản xuất nhiều lương thực và thực phẩm, giải quyết vấn đề lưu thông phân phối, giải quyết việc làm, tǎng thu nhập để đảm bảo khả nǎng mua thực phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm cho cá thể, gia đình, cộng đồng, khu vực và toàn xã hội.
Trong các hội nghị quốc tế về dinh dưỡng người ta đã khẳng định việc phối hợp giữa dinh dưỡng và ngành nông nghiệp, chế biến thực phẩm và ngành kinh tế học để tiến hành các can thiệp dinh dưỡng có hiệu quả. Ngày nay việc phối giữa dinh dưỡng và thực phẩm được thể hiện qua khoa học "Dinh dưỡng ứng dụng" ( Applied nutrltion ). Khoa học dinh dưỡng ứng dụng bao gồm từ việc nghiên cứu tập tục ǎn uống, mức tiêu thụ lương thực thực phẩm đến các chương trình và biện pháp sản xuất bảo quản, chế biến, lưu thông phân phối, và chính sách giá cả thực phẩm nhằm nâng cao và cải thiện bữa ǎn, kể cả các biện pháp kinh tế, quản lý nhằm tạo ra kết quả thanh toán nạn đói, giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng, nâng cao tình trạng dinh dưỡng kinh tế nhất và phù hợp với khả nǎng kinh tế của cộng đồng, khu vực và quốc gia.
Dinh dưỡng ứng dụng cũng đề cập tới vấn đề giáo dục dinh dưỡng cung cấp kiến thức về dinh dưỡng và ǎn uống hợp lý để có sức khỏe, cũng như kiến thức chǎm sóc và nuôi dưỡng trẻ phòng tránh các bệnh thiếu dinh dưỡng. Trong dinh dưỡng ứng dụng việc tiến hành theo dõi và giám sát tình hình dinh dưỡng và thực phẩm ở các địa phương để phát hiện những vấn đề dinh dưỡng thực phẩm để có những biện pháp can thiệp kịp thời. Để có được những hoạt động dinh dưỡng có hiệu quả, những kiến thức dinh dưỡng cũng ngày càng được sáng tỏ phân tích mối liên quan giữa dinh dưỡng và sức khỏe, các kiến thức về nhu cầu dinh dưỡng, mối liên quan của các yếu tố vì chất dinh dưỡng và bệnh tật, mối quan hệ giữa các axit béo chưa no với các bệnh mạn tính...
Để giải quyết những vấn đề lớn của thiếu dinh dưỡng ở các nước đang phát triển và thừa dinh dưỡng ở các nước phát triển cần có sự phối hợp của nhiều ngành. Đó là sự phối hợp giữa các ngành y tế, nông nghiệp kế hoạch, kinh tế, xã hội học, giáo dục trên cơ sở thực hiện một chương trình dinh dưỡng ứng dụng thích hợp đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng, phù hợp với điều kiện kinh tế, và dựa vào tình hình sản xuất lương thực, thực phẩm cụ thể ở các vùng sinh thái.
III. NHữNG VấN Đề DINH DƯỡNG LớN HIệN NAY
Về mặt dinh dưỡng, thế giới hiện nay đang sống ở hai thái cực trái ngược nhau hoặc bên bờ vực thẳm của sự thiếu ǎn, hoặc bên bờ vực thẳm của sự thừa ǎn. Trên thế giới hiện nay vẫn còn gần 780 triệu người tức là 20% dân số của các nước đang phát triển không có đủ lương thực, thực phẩm để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cơ bản hàng ngày. 192 triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng protein nǎng lượng và phần lớn nhân dân các nước đang phát triển bị thiếu vi chất; 40 triệu trẻ em bị thiếu vitamin A gây khô mắt và có thể dẫn tới mù lòa, 2000 triệu người thiếu sắt gây thiếu máu và 1000 triệu người thiếu iốt trong đó có 200 triệu người bị bướu cổ, 26 triệu người bị thiểu trí và rối loạn thần kinh và 6 triệu bị đần độn. Tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2,5 kg ở các nước phát triển là 6% trong khi ở các nước đang phát triển lên tới 19%. Tỷ lệ tử vong có liên quan nhiều đến suy dinh dưỡng ở các nước phát triển chỉ có 2% trong khi đó ở các nước đang phát triển là 12% và các nước kém phát triển tỷ lệ này lên tới 20% (Tỷ lệ này được tính với 100 trẻ sinh ra sống trong nǎm).
Theo ước tính của FAO sản lượng lương thực trên thế giới có đủ để đảm bảo nhu cầu nǎng lượng cho toàn thể nhân loại. Nhưng vào những nǎm cuối của thập kỷ 80 mới có 60% dân số thế giới được đảm bảo trên 2600 Kcal/người/ngày và vẫn còn 11 quốc gia có mức ǎn quá thấp dưới 2000 Kcalo/người/ngày.
Hậu quả của nạn thiếu ǎn về mặt kinh tế rất lớn. Theo cuốn sách "Giá trị cuộc sống", nếu một người chết trước 15 tuổi thì xã hội hoàn toàn lỗ vốn, nếu có công việc làm ǎn đều đặn thì một người phải sống đến 40 tuổi mới trả xong hết các khoản nợ đời, phải lao động và sống ngoài 40 tuổi mới làm lãi cho xã hội.
Ghosh cũng đã tính là ở ấn Độ, 22% thu nhập quốc dân đã bị hao phí vào đầu tư không hiệu quả, nghĩa là để nuôi dưỡng những đứa trẻ chết trước 15 tuổi.
Thiếu ǎn, thiếu vệ sinh là cơ sở cho các bệnh phát triển. ở châu Phi mỗi nǎm có 1 triệu trẻ em dưới 1 tuổi chết vì sốt rét. Trực tiếp hay gián tiếp trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển bị chết do nguyên nhân thiếu ǎn tới 50%. Ziegler nghiên cứu về tai họa của nạn thiếu ǎn, đặc biệt là châu Phi đã đi đến kết luận "Thế giới mà chúng ta đang sống là một trại tập trung hủy diệt lớn vì mỗi ngày ởđó có 12 nghìn người chết đói". Ngược lại với tình trạng trên ở các nước công nghiệp phát triển lại đứng bên bờ vực thẳm của sự thừa ǎn, nổi lên sự chênh lệch quá đáng so với các nước đang phát triển.
Ví dụ: Mức tiêu thụ thịt bình quân đầu người hàng ngày ở các nước đang phát triển là 53 gam thì ở Mỹ là 248 gam. Mức tiêu thụ sữa ở Viễn Đông là 51gam sữa tươi thì ở châu âu là 491 gam, úc là 574 gam, Mỹ là 850 gam. ở Viễn Đông tiêu thụ trứng chỉ có 3 gam thì ở úc là 31 gam, Mỹ là 35 gam, dầu mỡ ở Viễn Đông là 9 gam thì ở châu âu là 44 gam, Mỹ 56 gam. Về nhiệt lượng ở Viễn Đông là 2300 Kcalo, ở châu âu 3000 Kcalo, Mỹ 3100 Kcalo, úc 3200kcalo. Nếu nhìn vào mức tiêu thụ thịt cá thì sự chênh lệch càng lớn, 25% dân số thế giới ở các nước phát triển đã sử dụng 41% tổng protein và 60% thịt cá của toàn thế giới.
Lấy mức ǎn của Pháp làm ví dụ: Mức tiêu thụ thực phẩm nǎm 1976 tính bình quân đầu người là 84 kg thịt ( nǎm 1980 là 106 kg ), 250 quả trứng, 42 kg cá, 15 kg pho mát, 19 kg dầu mỡ, 9 kg bơ, 36 kg đường, 3kg bánh mì, 73 kg khoai tây, 101 kg rau, 58 kg quả, 101 lít rượu vang, 71 lít bia. Mức ǎn quá thừa nói trên đã dẫn đến tình trạng thừa dinh dưỡng. Theo Bour 20% dân Pháp bị bệnh béo phì, béo quá mức. ở những người béo trệ hiện tượng tích lũy mỡ bao bọc ở các cơ quan tǎng lên, thậm chí cả ở tim làm cho khả nǎng co bóp của tim yếu đi. ở những người béo thường mắc bệnh vữa xơ động mạch, khi động mạch vành bị vữa xơ sẽ làm giảm lưu tốc máu, sự nuôi dưỡng tim bị kém. Hậu quả của thừa ǎn ngoài bệnh béo phì còn dẫn đến các bệnh tǎng huyết áp, bệnh đái đường và các cơ quan bị nhiễm mỡ đặc biệt là bệnh thiểu nǎng tim, thiểu nǎng hô hấp, thiểu nǎng thận. Cũng theo Bour 15% dân Pháp bị cao huyết áp, 3% bị đái đường và tỷ lệ tử vong liên quan đến bệnh tim mạch tới 35-40% liên quan chặt chẽ với nạn thừa ǎn. Thực tế ở các nước đang phát triển hiện tượng thừa ǎn chủ yếu là thừa nǎng lượng do protein và nhất là lỉpit, nhưng vẫn thiếu các chất dinh dưỡng khác đặc biệt là các yếu tố vi chất dinh dưỡng.
Nước ta đang phấn đấu thoát khỏi tình trạng nghèo đói và suy dinh dưỡng, công việc không phải là dễ dàng sau nhiều nǎm chiến tranh. Song việc giải quyết vấn đề dinh dưỡng ở nước ta không phải là việc phấn đấu đuổi kịp các nước về tiêu thụ các thực phẩm từ thịt, bơ sữa, dầu mỡ và chất béo ǎn. Một mẫu thực phẩm tiêu thụ của các nước phát triển với tác động không có lợi đối với sức khỏe dẫn tới bệnh béo trệ, vữa xơ động mạch, cao huyết áp và đài đường, cũng như các rối loạn chuyển hóa khác.
Nhiệm vụ của những người làm dinh dưỡng nước ta là xây dựng được bữa ǎn cân đối hợp lý, giải quyết tốt vấn đề an toàn lương thực thực phẩm, sớm thanh toán bệnh suy dinh dưỡng protein nǎng lượng và các bệnh có ý nghĩa cộng đồng liên quan đến thiếu các yếu tố vi chất.
IV. BữA ǍN HợP Lý ĐảM BảO NHU CầU DINH DƯỡNG
Các chất dinh dưỡng tham gia cấu tạo nên cơ thể không phải là vật liệu cố định mà luôn được thay thế và đổi mới. Thành phần cấu tạo của một người nặng trung bình 50 kg bao gồm khoảng:
- 32 kg nước
- 11 kg đạm
- 4 kg chất béo (lipit)
- 2,5 kg chất khoáng
- 0,3-0,5 kg gluxit
Nhờ có chất đồng vị phóng xạ, đến nay người ta đã xác định là một nửa chất protein của cơ thể được đổi mới trong vòng 80 ngày. Protein ở gan, ỏ máu đổi mới còn nhanh hơn, một nửa đổi mới trong vòng 10 ngày.
Trong một đời người, chất protein có thể đổi mới tới 200 lần. Ngoài nhu cầu ǎn để phát triển cơ thể khi còn trẻ , để đổi mới cơ thể trong suốt đời người, người ta còn phải ǎn để đảm bảo nǎng lượng cho duy trì các hoạt động của cơ quan và lao động. Nǎng lượng tiêu hao của cơ thể được cung cấp bởi thức ǎn. Thức ǎn ǎn vào được chuyển hóa thành dạng hóa nǎng sau đó được chuyển thành nhiệt nǎng để duy trì thân nhiệt , thành cơ nǎng để đảm bảo hoạt động và lao động, thành điện nǎng để duy trì luồng điện sinh vật. Tất cả các loại nǎng lượng nay cuối cùng đều chuyển thành nhiệt nǎng tỏa ra ngoài cơ thể. Cho nên người ta chỉ cần đo nhiệt nǎng (gọi quen là nhiệt lượng) là đã biết được mức tiêu hao nǎng lượng của cơ thể. Có thể đánh giá mức ǎn có đủ hay không bằng cách theo dõi cân, đatm bảo cho mình có một cân nặng lý tưởng, người không quá gầy cũng không quá béo. Có thể dùng công thức sau đây để tính toán cân lý tưởng:
P = 50 + 0,75 ( T -
150 )
Trong đó: P là trọng lượng lý tường tính bằng kgT là chiều cao tính bằng cm.
Ví dụ: Một người cao 160 cm, thì cân nặng lý tưởng là:
50 + 0,75
( 160 - 150 ) = 57,5 kg.
Một người cao 170 cm thì cân nặng lý tưởng là:
50 + 0,75
( 170 -150 ) = 65 kg.
Có thể tính nhanh
bằng cách lấy chiều cao trừ đi 105 đối với người trẻ tuổi và 110 đối với người
có tuổi.Nếu sau một thời gian lao động và ǎn uống ở một mức nhất định mà cân vẫn đứng, có nghĩa là mức ǎn đã phù hợp với mức lao động.
Bữa ǎn hợp lý còn phải đáp ứng các nhu cầu dinh dưỡng phức tạp của cơ thể về các chất dinh dưỡng. Bảng tháp dinh dưỡng cân đối sau đây sẽ giúp chúng ta có khái niệm cơ bản để giải quyết vấn đề này .
Đảm bảo an toàn thực phẩm ở hộ gia đình.
- Về số lượng: Bình quân 2300 Kcalo/người/ngày, tối thiểu 2100 Kcal.
- Về chất lượng: Cân đối 12% protein, 18% lipit, 70% gluxit.
- Về vệ sinh: An toàn, không gây bệnh, hạn chế muối ǎn.
Đối với bà mẹ: + Có thai ǎn thêm mỗi ngày 300 Kcalo
+ Cho con bú ǎn thêm mỗi ngày 500 Kcalo, trung bình tương đương Kcalo của 100g gạo/ngày.
- Đối với trẻ em dưới 3 tuổi:
+ Bú mẹ sớm trong 1/2 giờ đầu sau khi sinh
+ Bú hoàn toàn sữa mẹ trong 4 tháng đầu. Từ tháng thứ nǎm cho ǎn sam có chất lượng, tô màu đĩa bột, nhưng vẫn bú mẹ tối thiểu 12 tháng. Cố gắng cho con bú đến 18-24 tháng, ǎn nhiều bữa 5-6 bữa/ngày, có thêm dầu để tǎng nǎng lượng.
- Đối với người lao động: ǎn theo lao động, càng lao động càng cần nhiều nǎng lượng và số lượng thức ǎn cũng tǎng theo để đảm bảo đủ nhu cầu nǎng lượng tǎng lên do lao động.
- Dồi với ngươi nhiều tuổi: ǎn giảm nǎng lượng dần theo lứa tuổi do giảm cường độ lao động trung bình giảm 30% nǎng lượng. Giảm những thức ǎn như đường , bánh kẹo, nước ngọt. Tǎng cá và thức ǎn nguồn gốc thực vật, tǎng rau quả
ở tháp dinh dưỡng cân đối có tính chất hướng dẫn chứng, chỉ có ý mô tả nhiều ít. Tất cả các nhóm thức ǎn mô tả ở trên đều cần. Muối tuy không phải là thực phẩm, chỉ là một gia vị , nhưng muối có liên quan tới bệnh cao huyết áp nên cần hạn chế. Sau muối là đường ngọt, bánh kẹo cũng cần được lưu ý để tránh lạm dụng: Không nên cho trẻ ǎn bánh kẹo trước bữa ǎn. Người cao tuổi cũng cần tránh dùng nhiều đường, bánh kẹo và nước ngọt.
Bơ, dầu, mỡ ở các nước phát triển ǎn quá nhiều, nǎng lượng do chất béo trong khẩu phần của họ lên tới trên 30%. ở nước ta mới đạt 7-8% cho nên lượng chất béo cần tǎng lên, tuy vậy nước ta là xứ nóng, không quen ǎn các món ǎn quá béo vì thế cũng không nên vượt quá 18% nǎng lượng bữa ǎn.
Trong khẩu phần của nhân dân ta lượng protein còn thiếu và chưa cân đối giữa đạm động vật và thực vật. Để giải quyết vấn đề thiếu protein cần chú ý phất triển trồng nhiều loại đậu đỗ , nhất là đỗ tương một loại có hàm lượng protein cao tới 34%. Cần đưa nhiều sản phẩm từ đỗ tương vào bữa ǎn, trước hết có sữa đậu nành cho trẻ em và người cao tuổi. Các món tương, đậu phụ có mặt trong bữa ǎn hàng ngày của các gia đình. Trong bữa ǎn cũng cần tǎng tỉ lệ thịt trứng vì đó không chỉ là nguồn cung cấp protein có giá trị cao mà còn là nguồn chất sắt dễ hấp thu để phòng chống bệnh thiếu máu. Cá không chỉ là nguồn protein có giá trị mà lipit của cá có nhiều axit béo chưa no cần thiết có tác dụng đề phòng cholesterol cao nên ǎn 3 bữa cá trong một tuần.
Rau quả tuy cung cấp ít nǎng lượng nhưng rất quan trọng vì là nguồn cung cấp các vi chất, các vitamin, các chất khoáng rất cần trong các quá trình chuyền hóa ở trong cơ thể. Rau quả còn chứa nhiều chất xơ giúp chống táo bón, phòng cholesterol cao và ung thư đại tràng. Đặc biệt rau quả rất cần cho những người cao tuổi.
Gạo, ngô, mì lương thực nói chung là thức ǎn cung cấp nǎng lượng chính cho bữa ǎn với giá rẻ về mặt giá trị nǎng lượng so với thịt và rau quả. Bữa ǎn của nhân dân ta còn nghèo nên lượng gạo chiếm tới 85% nǎng lượng khẩu phần, dẫn đến sự mất cân đối trong bữa ǎn. Để cải thiện bữa ǎn dần dần giảm nǎng lượng do gạo xuống và tǎng nhiều thực phẩm khác, làm cho bữa ǎn được đa dạng và phong phú hơn.
Để đảm bảo cho con người sống khỏe mạnh, trong dinh dưỡng không chỉ chú ý đến mặt đảm bảo nhu cầu mà là một vấn đề rất quan trọng là đảm bảo bữa ǎn sạch và an toàn. Thực phẩm cũng có thể là nguồn truyền nhiễm các mầm bệnh gây nên nhiễm khuẩn, nhiễm độc thức ǎn, cũng như là nguồn truyền các bệnh kí sinh trùng... Không những thế thực phẩm chúng ta ǎn hàng ngày đang bị đe dọa vì dư lượng hóa chất trừ sâu, diệt cỏ và kích thích tǎng trưởng. Thực phẩm còn bị nhiễm các phẩm màu và chất phụ gia trong quá trình gia công chế biến, bảo quán thực phẩm. Trong quá trình bảo quản dự trữ hiện tượng nấm mốc sản sinh các độc tố vi nấm rất nguy hiểm.
Để đảm bao sức khỏe con người cần đảm bảo ǎn đủ nhu cầu, cân đối về chất lượng, an toàn về mặt vệ sinh, cùng với việc đảm bảo nguồn nước sạch, môi trường thanh khiết, một cuộc sống tính thần lành mạnh sẽ đảm báo cho con người khỏe mạnh.