Các bệnh mạn tính
không lây là mô hình bệnh tật chính ở các nước có nền kinh tế phát triển. Trong mấy
thập kỷ gần đây mối quan hệ giữa dinh dưỡng, chế độ ǎn và các bệnh mạn tính đã
được quan tâm nhiều.
Tuy nhiều điều còn
chưa sáng tỏ nhưng các tác giả hầu như đều cho rằng dinh dưỡng 'là một trong
những nhân tố nguy cơ quan trọng. Chúng ta lần lượt xem xét một số vấn đề mà
các bằng chứng về mối liên quan đã tương đối rõ ràng.
A.Béo phì
Béo phì là một tình
trạng sức khỏe có nguyên nhân dinh dưỡng. Thường thường một người trưởng thành
khoe mạnh, dinh dưỡng hợp lý, cân nặng của hộ đứng yên hoặc dao động trong giới
hạn nhất. định. "Cân nặng nên có" của mỗi người thường ở vào độ tuổi
25-30. Hiện nay, Tổ chức Y tế thế giới thường dùng chỉ số khối cơ thể (
Body Mass Index, BMI ) để nhận định tình trạng gầy béo:
Người ta coi chỉ số
BMI bình thường nên ở giới hạn 20-25, trên 5 là béo và trên 30 là
quá béo. Các công trình nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử vong tǎng lên khi chỉ số BMI quá thấp (gầy) hoặc quá cao (béo).
Mọi người đều biết cơ
thể giữ được cân nặng ổn định là nhờ trạng thái cân bằng giữa nǎng lượng do
thức ǎn cung cấp và nàng lượng tiêu hao cho lao động và các hoạt động khác của
cơ thể. Cán nặng có thể tǎng lên có thể do chế độ ǎn dư thừa vượt quá nhu cầu
hoặc do nếp sống làm việc tĩnh tại ít tiêu hao nǎng lượng. Người ta nhận thấy
60-80% trường hợp béo phì là do nguyên nhân dinh dưỡng, bên cạnh đó còn có thể
do các rối loạn chuyển hóa trang cơ thể thông qua vai trò của hệ thống thần kinh
và các tuyến nội tiết như tuyến yên, tuyến thượng thận, tuyến giáp trạng và
tuyến tụy.
Vào trong cơ thể, các
chất protein, lipit, gluxit đều có thể chuyển thành chất béo dự trữ. Vì vậy
không nên coi ǎn nhiều thịt, nhiều mỡ mới gây béo mà ǎn quá thừa chất bột,
đường, đồ ngọt đều có thể gây béo. Vị trí phân bố chất béo dự trừ trong cơ thể
cũng có ý nghĩa sức khỏe quan trọng. Người ta nhận thấy chất béo tập trung
nhiều ở bụng (béo bụng) không tốt đối với sức khỏe. Vì vậy bên cạnh theo
dõi chỉ số BMI nên theo dõi thêm tỷ số vòng bụng/vòng mông, khi tỷ số này cao
hơn 0,8 thì các nguy cơ tǎng lên.
Béo phì không tốt đối
với sức khỏe, người càng béo các nguy cơ càng nhiều. Trước hết, người béo phì
dễ mắc các bệnh tǎng huyết áp, bệnh tim do mạch vành, đái đường, hay bị các rối
loạn dạ dày ruột, sỏi mật... Nhiều nghiên cứu cho thấy hàm lượng cholesterol
trong máu và huyết áp tǎng lên theo mức độ béo và khi cân nặng giảm sẽ kéo theo
giảm huyết áp và cholesrol. ở phụ nữ mãn kinh, các nguy cơ ung thư túi mật,
ung thư vú và tử cung tǎng lên ở những người béo phì, còn ở nam giới béo phì
bệnh ung thư thận và tuyến tiền liệt hay gặp hơn. Thực hiện một chế độ ǎn uống
hợp lý và hoạt động thể lực đúng mức để duy trì cân nặng ổn định ở người trưởng thành, đó là nguyên tắc cần thiết
để tránh béo phì. ở nhiều nước phát triển, tỷ lệ người béo lên tới 30-40%, nhất là ở độ tuổi trung niên và chống béo phì trở thành
một mục tiêu sức khỏe cộng đồng quan trọng. ở Việt nam, tỷ lệ người béo còn thấp nhưng có
khuynh hướng gia tǎng nhất là ở các đô thị. Đó là điều cần được chú ý để có các can thiệp kịp
thời.
B. DINH DƯỡNG Và CáC BệNH TIM MạCH
ít có chủ đề nghiên
cứu được quan tâm nhiều trong những nǎm gần đây như mối liên quan giữa chế độ
ǎn uống với các bệnh tim mạch. Hiện nay, hầu như mọi người đều thừa nhận rằng
chế độ dinh dưỡng là một nhân tố quan trọng trong phòng ngừa và xử trí một số
bệnh tim mạch, trước hết là bệnh tǎng huyết áp và bệnh mạch vành.
1.
Tǎng huyết áp và bệnh mạch não.
Yếu tố nguy cơ chính
của tai biến mạch máu não là tǎng huyết áp. Các nghiên cứu đều thấy mức huyết
áp tǎng lên song song với nguy cơ các lệnh tim do mạch vành và tai biến mạch
não.
Trong các nguyên nhân
gây tǎng huyết áp, trước hết người ta thường kể đến lượng muối trong khẩu phần.
Các thống kê dịch tễ cho thấy ở các quần thể dân cư ǎn ít muối thì bệnh tǎng
huyết áp không đáng kể và không thấy có bǎng huyết áp theo tuổi. Tuy nhiên,
phản ứng của từng cá thể đối với muối ǎn cũng không giống nhau. Hiện nay Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo chế độ ǎn muối 6g/ngày
là giới hạn hợp lý để phòng tǎng huyết áp.
Bên cạnh muối ǎn còn
có một số muối khác cũng có vai trò đối với tǎng huyết áp. Theo một số tác giả,
tǎng lượng canxi trong khẩu phần có ảnh hưởng làm giảm huyết áp. Một số công
trình khác nhấn mạnh vai trò của tỷ số KJNA trong khẩu phần và cho rằng chế độ
ǎn giàu kali có lợi cho người tǎng huyết áp. Sữa và các chế phẩm từ sữa là
nguồn canxi tốt, các thức ǎn nguồn gốc thực vật như lương thực, khoai củ, đậu
đỗ và các loại rau quả có nhiều kali. Thêm vào đó một lượng cao các axit béo
bão hòa trong khẩu phần cũng dẫn đến tǎng huyết áp.
Như vậy bên cạnh muối
na tri, nhiều thành phần khác trong chế độ ǎn cũng có ảnh hưởng đến tǎng huyết
áp, đó là chưa kể đến một số yếu tố khác đã được đề cập tới là béo phì và rượu.
Một chế độ ǎn hạn chế
muối, giảm nǎng lượng và rượu có thể đủ để làm giám huyết áp ở phần lớn đối
tượng có tǎng huyết áp nhẹ. ở những người tǎng huyết áp nặng chế độ ǎn uống
nói trên giúp giảm bớt sử dụng các thuốc hạ áp. Bên cạnh đó chế độ ǎn nên giàu
canxi, kali, vitamin C, thay thế các chất béo của thịt bằng cá.
ở Việt Nam, vào những nǎm 60, tỷ lệ tǎng huyết
áp chỉ vào khoảng 1% dân số, nhưng hiện nay theo số liệu của Viện tim mạch tỉ
lệ này cao hơn 10%, như vậy tǎng huyết áp đã trở thành một vấn đề sức khỏe cộng
đồng quan trọng. Các cuộc điều tra do Viện Dinh dưỡng tiến hành cho thấy ở các vùng có nhiều người tǎng huyết áp mức tiêu
thụ muối ǎn thường cao hơn các nơi khác, do đó tránh thói quen ǎn mặn là một
nội dunggiáo dục dinh dưỡng quan trọng để đề phòng tǎng huyết áp ở nước ta.
2. Bệnh mạch vành.
Bệnh tim do mạch vành
(Coronary Heart Disease CHD) là vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng ở các nước phát triển, chiếm hàng đầu trong các
nguyên nhân gáy tử vong. Nhờ các chương trình giáo dục sức khỏe tích cực, bệnh
có khuynh hương giảm dần trong các thập kỷ gần đây ở nhiều nước Tây âu, úc, Bắc Mỹ, nhưng ở một số nước Đông âu bệnh vẫn có xu hướng tǎng. Tỷ lệ mắc bệnh
khác nhau ở các nước cũng như trong cùng một nước nhưng khác nhau về điều kiện
kinh tế xã hội làm cho người ta chú ý đến các nhân tố nguy cơ mắc bệnh là môi
trường và dinh dưỡng.
Theo sự hiểu biết hiện
nay ba yếu tố nguy cơ đã được xác định, đó là hút thuốc lá, tǎng huyết áp và
hàm lượng cholesterol trong máu cao. Các nguy cơ tǎng dần theo tuổi ở nữ (trước
khi mãn kinh) thấp hơn ở nam. Các nguy cơ do tǎng huyết áp và mối liên
quan giữa dinh dưỡng với tǎng huyết áp đã được trình bày ở phần trên, dưới đây xin đề cập tới hai nhân tố
còn lại.
a) Hút thuốc lá :
Tất cả các Hội đồng chuyên
viên đều xác nhận hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ hàng đầu đối với bệnh mạch
vành. Người ta thấy hút thuốc lá không những gây tốn thương màng trong các động
mạch mà còn sinh ra chất nieotin gây tǎng nhịp tim và huyết áp, tǎng nhu cầu
oxy của các cơ tim. Các oxyt cacbon do hút thuốc lá sinh ra làm giảm khả nǎng
vận chuyển oxy cửa máu. Hơn thế nữa, hút thuốc lá còn là nguồn sản sinh ra các
gốc tự do, tǎng độ kết dính của tiểu cầu và làm giảm các lipoprotein có tỷ
trọng cao ( HDL: High Density Lipoprotein).
Yếu tố dinh dưỡng được
quan tâm đến khi người ta nhận thấy nhiều ở vùng Địa Trung Hai như ý, Hi Lạp là vùng nghiện thuốc lá nặng nhưng tỷ lệ mắc bệnh mạch
vành không tǎng. Nhiều tác giả cho rằng đó là do lượng rau và trái cây trong
khẩu phần ở các nước này thường cao.
b) Cholesterol máu:
Mối liên quan giữa
bệnh mạch vành với lượng cholesterol toàn phần trong máu đã được thừa nhận rộng
rãi. Đó là một chỉ điểm tốt về nguy cơ của bệnh mạch vành. Cholesterol
là một chất sinh học có nhiều chức phận quan trọng, một phần được tổng hợp
trong cơ thể, một phần do thức ǎn cung cấp.
Lượng cholesterol
trong khẩu phần có ảnh hưởng đến cholesterol toàn phần trong huyết thanh, tuy
ảnh hưởng này ít hơn ảnh hưởng của các axit béo no. Do cholesterol trong chế độ
ǎn góp phần tạo nên nguy cơ bệnh mạch vành nên hầu hết các ủy ban chuyên viên
quốc tế đều khuyên lượng choìesterol trong chế độ ǎn trung bình nên dưới 300
mg/ngày/người.
Cholesterol chỉ có
trong các thức ǎn nguồn gốc động vật, nhất là não (2500 mg%), bầu dục (5000
mg%), tim (2100 mg%), lòng đỏ trứng (2000 mg%), do đó hạn chế các thức ǎn này
góp phần giảm lượng cholesterol trong khẩu phần. Lòng đủ trứng có nhiều
cholesterol nhưng đồng thời có nhiều lexitin là một chất điều hòa chuyển hoá
cholesterol trong cơ thể. Do đó ở những người có cholesterol máu cao không nhất
thiết kiêng hẳn trứng mà chỉ nên ǎn trứng mỗi tuần 1,2 lần và nếu có điều kiện
uống thêm sữa.
Người ta thấy thành
phần chính trong chế độ ǎn có ảnh hưởng đến hàm lượng cholesterol huyết thanh
là các axit béo no. Nghiên cứu nổi tiếng của Keys và cộng sự trên 7 nước sau
chiến tranh thế giới lần thứ hai cho thấy mức cbolesterol huyết thanh liên quan
ít với tổng số chất béo mà liên quan chặt chẽ với lượng các axit béo no. Qua 10
nǎm theo dõi nhận thấy tỷ lệ tử vong do bệnh mạch vành tǎng lên một cách có ý
nghĩa theo mức tǎng của các axit béo no trong khẩu phần. Các axit béo no có
nhiều trong các chất béo động vật, còn các loại dầu thực vật nói chung giàu các
axit béo chưa no. Do đó một chế độ ǎn giảm chất béo động vật, tǎng dầu thực
vật, bớt ǎn thịt, tǎng ǎn cá là có lợi cho người có rối loạn chuyển hóa
cholesterol. Người ta nhận thấy các axit béo no làm tǎng các lipoprotein có tỷ
trọng thấp (LDL) vận chuyển cholesterol từ máu tới các tổ chức và có thể tích lũy
ở thành động mạch. Ngược lại các axit béo chưa no làm tǎng các
lipoproteìn có tỷ trọng cao (High Density Lipoprotein.HDL) vận chuyển
cholesterol từ các mô đến gan để thoái hóa.
Chế độ ǎn nhiều rau và
trái cây tỏ ra có tác dụng bảo vệ cơ thể với bệnh mạch vành tuy cơ chế còn chưa
rõ ràng. Có thể đó là do tác dụng của chất xơ có nhiều trong rau quả, cũng
có thể là một chế độ ǎn thực vật sẽ làm giảm huyết áp, một nhân tố nguy cơ của
các bệnh mạch vành.
Trong các thập kỷ vừa
qua, nhiều nước như Nguy, Thụy Điển, Phần Lan, úc Hoa Kỳ... đã thực hiện nhiều. biện pháp để
phòng ngừa bệnh mạch vành và họ đã đạt được một số kết quả khả quan. Nói chung
các biện pháp này bao gồm các lời khuyên về chế độ dinh dưỡng, cai thuốc lá,
hoạt động thể lực và duy trì cân nặng ổn định. Trong các khuyến cáo về ǎn uống,
người ta khuyên nǎng lượng do chất béo cung cấp không được vượt quá 30% tổng số
nǎng lượng, sử dụng dầu thực vật, tǎng sử dụng khoai, rau và trái cây. Các loại
đường ngọt không cung cấp quá 10% tổng số nǎng lượng còn nǎng lượng do protein
nên đạt từ 10-15%.
Các bài học trên rất
bổ ích cho nước ta khi bệnh mạch vành đang có khuynh hướng tǎng. Nghiên cứu tổn
thương giải phẫu bệnh lý các trường hợp vữa xơ động mạch vào thập kỷ 60 . ở bệnh viện Bạch Mai cho thấy, 95% có tổn thương
động mạch não, 5% có tổn thương động mạch vành, còn đầu thập kỷ 80, 85% có tổn
thương động mạch não và 15% có tổn thương động mạch vành.
C.
DINH DƯỡNG Và UNG THư
Mặc dù nguyên nhân của
nhiều loại ung thư còn chưa biết rõ nhưng người ta càng ngày càng quan tâm đến
mối liên quan giữa chế độ ǎn uống với ung thư. Theo thống kê dịch tễ học của
Doll và Peto, có 30% ung thư liên quan tới hút thuốc lá, 35% liên quan đến ǎn
uống, do rượu 3% và do các chất cho thêm vào thực phẩm 1%.
Trước hết, nhiều chất
gây ung thư có mặt trong thực phẩm, đáng chú ý nhất là các anatoxin và
nitrosamin. Aflatoxin là độc tố do mốc Aspergillus Flavus tạo ra, thường gặp ở lạc và một số thực phẩm khác do điều kiện bảo
quản không hợp lý sau thu hoạch.
Anatoxin, nhất là loại
Bi là độc tố gây ung thư gan mạnh trên thực nghiệm và sử dụng thực phẩm nhiễm
Aflatoxin là một nguy cơ gây ung thư gan ở người.
Một số các nitrosamin
cũng là chất gây ung thư trên thực nghiệm. Nitrosamin được hình thành ở ruột
non do sự kết hợp giữa nitrit và các min. Các nitrat thường có một lượng nhỏ
trong thực phẩm, mặt khác người ta còn dùng nitrat và các nitrit để bảo quản
thịt chống ô nhiễm Clostridium. Vì vậy việc giám sát liều lượng cho phép các
chất phụ gia này là rất cần thiết.
Nhiều loại phẩm màu
thực phẩm và chất gây ngọt như cyclamat cũng có khả nǎng gây ung thư thực
nghiệm, do đó các quy định vệ sinh về phẩm màu, các chất phụ gia cần được tuân
thủ một cách chặt chẽ.
Dưới đây chúng ta đề
cập đến một số loại ung thư mà mối liên quan với chế độ ǎn uống tỏ ra rõ ràng
nhất.
1.
Ung thư dạ dày.
Người ta thấy tỉ lệ
mắc ung thư dạ dày khác nhau ở các nước trên thế giới và có liên quan nhiều
đến chế độ ǎn uống. Hiện nay ở Mỹ tỷ lệ ung thư dạ dày thấp nhất trên thế
giới trong khi vào nǎm 1930 đó là loại ung thư gây tử vong hàng đầu ở nam giới và thứ 2 ở nữ giới . Tỷ lệ ung thư dạ dày đang giảm dần ở Nhật Bản và tỉ lệ này giảm dần trong số người
di cư từ Nhật đến Ha Oai. ở Việt Nam cǎn cứ theo số liệu Bệnh viện K, ung
thư dạ dày thường gặp nhất trong các loại ung thư ở nam giới và đứng hàng thứ nhì
trong các loại ung thư ở nữ giới, sau ung thư tử cung.
Cơ chế về quan hệ giữa chế độ ǎn với ung thư
dạ dày có thể như sau:
Các nitrat ǎn vào sẽ
chuyển thành nitrit do tác dụng của vi khuẩn. Độ toan của dịch vị dạ dày ức chế
sự phát triển vi khuẩn trong dạ dày, do đó hạn chế sự tạo thành nitrosamin. ở những người có bệnh giảm toan dạ dày, khả nǎng
ức chế này kém đi. Ngoài ra muối cũng liên quan với ung thư dạ dày vì gây teo
tổ chức ở niêm mạc dạ dày, vitamin C có nhiều trong rau và trái cây có tác dụng bảo
vệ cơ thể đối với ung thư dạ dày nhờ ức chế sự tạo thành nitrit từ nitrat.
2.
Ung thư đại tràng.
Nhiều nghiên cứu cho
thấy là các chế độ ǎn ít chất xơ và nhiều chất béo (đặc biệt là loại chất béo
bão hòa) làm tǎng nguy cơ ung thư đại tràng. Tác dụng bảo vệ của chất xơ (có
nhiều trong rau và trái cây) có thể là do chúng có khả nǎng chống táo bón, pha
loãng các chất có thể gây ung thư trong thực phẩm và giảm thời gian tiếp xúc
của niêm mạc đường tiêu hóa với các chất này.
3.
Ung thư vú.
Tầm quan trọng của yếu
tố môi trường đối với ung thư vú đã rõ ràng vì tỷ lệ mắc bệnh thay đổi khi
những người di cư từ nước có nguy cơ thấp tới nước có nguy cơ cao và thay đổi
chế độ ǎn uống. Lượng chất béo trong khẩu phần thường được coi là yếu tố quan
trọng trong phát sinh ung thư vú. Nghiên cứu ở 23 nước châu âu đã tìm thấy có mối liên quan
cao giữa tử vong do ung thư vú và lượng axit béo no trong khẩu phần, mối liên
quan này chặt chẽ hơn trong thời kỳ mãn kinh. Trong mối liên quan này có vai
trò trung gian của các nội tiết tố là prolactin và oestrogen. Prolactin được
coi là yếu tố bao vệ. ở những phụ nữ ǎn chế độ nhiều chất béo, lượng
prolactin thường cao, ở những người ǎn chế độ thực vật lượng prolactin
thường thấp và, ở những đối tượng này tỉ lệ mắc bệnh ung thư vú thấp hơn.
Mối quan hệ giữa chế
độ ǎn và ung thư vú đang còn được tiếp tục nghiên cứu, tuy nhiên cuộc họp liên
tịch giữa Tổ chức Châu âu về phòng chống ung thư với Hiệp hội dinh dưỡng thế
giới vào tháng 6/1985 đã khuyến cáo rằng chế độ ǎn đề phòng bệnh tǎng huyết áp
và mạch vành cũng được coi là có thể hạn chế nguy cơ gây ung thư.
4. Tóm tát các mối liên quan chủ yếu giữa chế độ
ǎn và ung thư.
Mối liên quan giữa chế
độ ǎn với ung thư còn ít được nghiên cứu hơn so với các bệnh tim mạch, mặt khác
đó là những nghiên cứu không dễ dàng. Theo sự hiểu biết hiện nay, người ta cho
rằng chế độ ǎn có lượng chất béo cao là yếu tố nguy cơ đối với ung thư đại
tràng, tuyến tiền liệt và ung thư vú. Các chế độ ǎn giàu thức ǎn thực vật, đặc
biệt là các loại rau xanh, quả chín làm giảm nguy cơ các ung thư phổi, đại
tràng, thực quản và dạ dày. Cơ chế của các yếu tố này còn chưa rõ ràng nhưng
người ta cho rằng có thể là do các chế độ ǎn này có ít chất béo bão hòa, nhiều
tinh bột, chất xơ, các vitamin và chảy khoáng, dặc biệt là b -caroten. Bảng sau đây tổng hợp các mối liên
quan đó.
Mối liên quan gia mối số thành phần dinh dưỡng
và ung thư
Vị
trí ung thư
|
Chất
béo
|
Chất
xơ
|
Rau
quả
|
Rượu
|
Thức
ǎn ướp muối, hun khói
|
Phổi
|
|
-
|
|
|
|
Vú
|
+
|
|
|
+/-
|
|
Đại
tràng
|
++
|
-
|
-
|
|
|
Tuyến
tiền liệt
|
++
|
|
|
|
|
Bàng
quang
|
|
|
-
|
+
|
|
Trực
tràng
|
+
|
|
-
|
+
|
|
Khoang
miệng
|
|
|
-
|
|
|
Dạ
dày
|
|
-
|
-
|
|
|
Thực
quản
|
|
-
|
-
|
++
|
++
|
Chú thích: +: Ǎn nhiều
có nguy cơ cao
-: Ǎn nhiều làm giảm nguy cơ
Ngoài ra trọng lượng có
thể cũng có vai trò nhất định, người béo dễ mắc bệnh ung thư vú và nội mạc hơn.
D. ĐáI ĐƯờNG KHÔNG PHụ THUộC INSULIN.
Có hai thể đái đường chính:
- Thể đái đường phụ
thuộc insulin.
- Thể đái đường không
phụ thuộc insulin.
Đái đường phụ thuộc
insulin chủ yếu gặp ở trẻ em, thiếu niên và người dưới 30 tuổi do
tuyến tụy bị tổn thương gây thiếu insulin. Loại đái đường phụ thuộc insulin
chiếm khoảng 10% trường hợp đái đường.
Phần lớn bệnh nhân đái
đường thuộc thể đái đường không phụ thuộc insulin, thường hay gặp ở người trung niên trớ lên. Béo phì là nguy cơ
chính của bệnh đái đường không phụ thuộc insulin, nguy cơ này càng tǎng lên
theo thời gian và mức độ béo. Có đến 80% bệnh nhân mắc bệnh này là những người
béo. Tỷ lệ này tǎng gấp đôi ở những người béo vừa phải và tǎng gấp ba ở những người quá béo.
Chống béo thì là biện
pháp đủ phòng có triển vọng nhất để dự phòng bệnh đái đường không phụ thuộc
insulin. Chế độ ǎn thực vật nhiều rau có liên quan đến hạ thấp tỉ lệ mắc đái
đường.
E. sỏi MậT
Trong 30 nǎm lại đây,
sinh bệnh học của sỏi mật trở nên rõ ràng hơn.
Các rối loạn của túi
mật làm hình thành sỏi mật ( chủ yếu là sỏi cholesterol). Sỏi mật thường phổ
biến hơn ở các nước đang phát triển. ở các nước phát triển, bệnh sỏi mật thường
gặp ở những người ǎn chế độ ǎn ít rau hơn ở những người ǎn nhiều
G. XƠ GAN
Mối liên quan giữa sử
dụng rượu và xơ gan đã được thừa nhận rộng rãi. ở Pháp trong thời gian chiến tranh thế bơỉới thứ
hai, tỷ lệ chết do xơ gan đã giảm 80% do hạn chế sứ dụng rượu. Kết quả một số
nghiên cứu ở Pháp cho thấy nếu giảm mức tiêu thụ rượu từ 160g xuống 80g/ngày
có thể giảm tỷ lệ mắc bệnh xơ gan 58% và ung thư thực quan 28%. Như vậy, giảm
tiêu thụ rượu rõ ràng là có lợi tuy nhiên ri mức nhạy cảm đối với rượu khác
nhau giữa các cá thể, nữ giới có phần nhạy cảm hơn so với nam giới.
H. BệNH SÂU RǍNG Và CáC CHấT ĐƯờNG NGọT
Có nhiều bằng chứng nói lên mối quan hệ giữa bệnh
sâu rǎng với các loại đường ngọt. Quá trình hao mòn các chất khoáng ở men rǎng phụ thuộc vào sự hình thành các axit
sản sinh ra do vi khuẩn làm lên men các gluxit. Người ta thấy các loại đường
đơn giản (sacaroza, glucoza và fructoza) có khả nǎng gây sâu rǎng nhiều hơn
tinh bột. Nhiều yếu tố khác cũng có ảnh hưởng tới phát sinh sâu rǎng, như số
lần ǎn các loại đường ngọt, thành phần nước bọt, tính nhất men rǎng, độ dính
của thức ǎn, yếu tố di truyền, mức flo trong nước và chǎm sóc rǎng miệng. Người
ta còn nhận thấy dùng đường ngọt ngoài các bữa ǎn chính có tác dụng gây sâu
rǎng nhiều hơn là trong các bữa ǎn.
Mối quan hệ giữa đường
và sâu rǎng ở trẻ em bé rõ ràng hơn là ở trẻ em lớn. Hiện na,y tỉ lệ mắc sâu rǎng ở một số nước đang phát triển cao hơn so với
nhiều nước công nghiệp hóa, đó là do ở các nước đó đã tǎng việc sử dụng đường
và thiếu chất fluo trong chế độ ǎn.
Các lời khuyên để
phòng bệnh sâu rǎng là:
- Giảm số lượng và
nhất là số lần sử dụng đường ngọt, các loại bánh kẹo ngọt. Lượng đường sử dụng
bình quân đầu người không quá 20g/ngày.
- Tǎng cường vệ sinh
rǎng miệng, sử dụng các loại kem đánh rǎng có tǎng cường fluo. Cần nhớ rằng cả
thừa và thiếu fluo đều có hại, lượng fluo thích hợp trong nước uống nên ở mức 0,7-1,2 mg/1ít.
I. BệNH LOãNG XƯƠNG
Tỷ lệ người già
càng tǎng lên trong cộng đồng thì càng trở thành một vấn đề lớn đối với việc
chǎm sóc sức khỏe. Người già dễ bị gãy xương, thường là xương đùi và xương chậu
có khi chỉ sau một chấn thương nhẹ , nhất là ở các cụ bà, hậu quả thường rất trầm trọng,
nhiều người bị chết, số sống sót đòi hỏi sự chǎm sóc lâu dài. Xương dễ bị gãy
thường do loãng xương gây nên, đó là hiện tượng mất đi một số lượng lớn tổ chức
xương trong toàn bộ thể tích xương, làm độ đặc của xương giảm đi.
Hàm lượng chất khoáng
trong xương cao nhất ở tuổi 25 sau đó giảm xuống ở nữ độ tuổi mãn kinh và nam khoảng 55 tuổi. Tỷ
lệ khối lượng xương giảm đi hàng nǎm thay đối từ 0,5- 2% tùy theo từng người.
Những người khi còn trẻ có độ đặc xương thấp thì khi về già dễ bị loãng xương.
Các yếu tố sau đây có
ảnh hưởng tới độ đặc của xương:
a) Thiếu oestrogen.
b) Thiếu hoạt động.
c) Hút thuốc lá.
d) Uống rượu và dùng
thuốc.
e) Chế độ dinh dưỡng
nhất là canxi.
Các lời khuyên về dinh
dưỡng để đề phòng loãng xương có thể tóm tất như sau:
1. Tǎng thêm các thức
ǎn giàu canxi: Sữa và các chế phẩm từ sữa như fomát ( nên dùng các loại sữa có
ít chất béo- ). ở một số nước, người ta tǎng cường canxi vào bánh mì. Người già
cần nhiều canxi hơn còn trẻ vì khả nǎng hấp thu canxi của họ kém hơn.
2. Lượng protein trong
khẩu phần nên vừa phải, ǎn nhiều protein phải đảm bảo đủ canxi vì chế độ ǎn
nhiều protein làm tǎng bài xuất canxi theo nước tiểu
3. Ǎn nhiều rau và
trái cây.
4. Có thời gian hoạt động ngoài trời nhất định để
tǎng tổng hợp vitamin D trong cơ thể.
5. Không nghiện rượu.
6. Hoạt động thể lực
vừa phải.
7. Duy trì cân nặng
"nên có". Gầy là một yếu tố nguy cơ của loãng xương. Các hậu quả của
loãng xương đã trở thành một gánh nặng cho xã hội ở nhiều nước phát triển, ước
tính mỗi nǎm nước Mỹ phải chi 3,8 tỷ đô la cho vấn đề này.
Loãng xương và hậu quả
của nó rất đáng chú ý ở nước ta, tiếc rằng còn ít công trình nghiên cứu về vấn
đề này.
Tóm lại, các hiểu biết
về mối quan hệ giữa dinh dưỡng và bệnh tật tuy đã phong phú nhưng chưa thể coi
là đầy đủ, kể cả các bệnh do thiếu dinh dưỡng và thừa dinh dưỡng. Tuy vậy với
những hiểu biết hiện nay đã cho phép xây dựng một chế độ dinh dưỡng hợp lí để
giữ gìn sức khỏe và đề phòng bệnh tật. Nhiều nước phát triển đã có các khuyến
cáo về dinh dưỡng trong từng giai đoạn, chắc rằng vấn đề đó cũng sẽ được quan
tâm ở nước ta.