Những kết quả nghiên
cứu của khoa học dinh dưỡng đã chỉ ra trong thức ǎn có chứa các thành phần dinh
dưỡng cần thiết đối với cơ thể, đó là các chất protein, lipit, các vitamin, các
chất khoáng và nước: Sự thiếu một trong các chất này có thể gây ra nhiều bệnh
tật thậm chí chết người ví dụ như bệnh scobut do thiếu vitamin C đã lấy đi sinh mạng 100 trong số 160 thủy thủ
theo
Vasco de Gam tìm đường
sang phương đông, bệnh viêm da Pellagra hay gặp ở các vùng ǎn toàn ngô do thiếu vitamin PP, bệnh
tê phù do thiếu vitamin B1...
Người ta gọi đó là các
bệnh thiếu dinh dưỡng đặc hiệu, nghĩa là nguyên nhân chủ yếu là do thiếu một
thành phần dinh dưỡng nào đó. Nhờ áp dụng kiến thức dinh dưỡng. vào chǎm sóc
sức khỏe; nhiều loại bệnh này được đẩy lui về quá khứ. Tuy vậy ở các nước nghèo vẫn còn nổi trội lên các vấn đề
sức khỏe do thiếu dinh dưỡng, các bệnh thiếu dinh dưỡng quan trọng nhất hiện
nay là thiếu Protein nǎng lượng, thiếu vitamin A và bệnh khô mắt, thiếu máu dinh dưỡng, thiếu
iot và bệnh bướu cổ.
THIếU DINH DƯõNG PROTEIN-NǍNG LƯợNG
I. ĐạI CƯƠNG Về THIếU
DINH DƯỡNG PROTEIN NǍNG LƯợNG .
Thiếu dinh dưỡng
Protein nǎng lượng là loại thiếu dinh dưỡng quan trọng nhất ở trẻ em, với biểu hiện lâm sàng bằng tình trạng
chậm lớn và hay đi kèm với các bệnh nhiễm khuẩn .
Thiếu dinh dưỡng
Protein nǎng lượng ở trẻ em thường xảy ra do:
- Chế độ ǎn thiếu về
số lượng và chất lượng .
- Tình trạng nhiễm
khuẩn, đặc biệt là các bệnh đường ruột, sởi, và viêm cấp đường hô hấp. Các bệnh
này gây tǎng nhu cầu, giảm ngon miệng và hấp thu.
Mối quan hệ giữa suy
đinh dưỡng- nhiễm khuẩn thể hiện qua vòng sau đây:
Tình trạng phổ biến
của suy dinh dưỡng có liên quan chặt chẽ với tình trạng kinh tế xã hội, sự
nghèo đói, sự kém hiểu biết vì tình trạng vǎn hóa thấp, mù chữ, thiếu
thức ǎn, vệ sinh kém, đồng thời với sự lưu hành bệnh nhiễm khuẩn. ở cộng đồng các nguyên nhân thường đan xen nhau
rất phức tạp cần lưu ý tới những trẻ em sinh ra ở các gia đình nghèo túng, ở những bà mẹ đẻ quá dày, cân nặng khi trẻ sinh
ra thấp, những đứa trẻ sinh đôi, những bà mẹ sau sinh mất sữa. Đó là những trẻ có nguy cơ cao chế độ ǎn không đủ
cả lượng và chất dẫn tới bị suy dinh dưỡng.
Suy dinh dưỡng thể còm
Marasmus là thể thiếu dinh dường nặng hay gặp nhất. Đó là hậu quả của chế độ ǎn thiếu cả nhiệt lượng
lẫn Protein do cai sữa sớm hoặc ǎn bổ sung không hợp lý. Tình trạng vệ sinh kém
gây ỉa chầy, đứa trẻ ǎn càng kém và vòng luẩn quẩn bệnh lý bắt đầu. Kwashiorkor
ít gặp hơn Marasmus thường là do chế độ ǎn quá nghèo về protein mà gluxit tạm
đủ (chế độ ǎn sam chủ yếu dựa vào khoai sắn). Ngoài ra còn có thể phối hợp
Marasmus - Kwashiorkor.
Đặc điểm các thể suy
dinh dưỡng
Thể
loại lâm sàng
|
Marasmus
|
Kwashiorkor
|
Các
biểu hiện thường gặp
|
||
Cơ teo đét
|
Rõ ràng
|
Có thể không rõ do phù
|
Phù
|
Không có
|
Có ở các chi dưới , mặt
|
Cân nặng/ chiều cao
|
Rất thấp
|
Thấp, có thể không rõ do phù
|
Biến đổi tâm lý
|
Đôi khi lặng lẽ mệt mỏi
|
Hay quấy khóc, mệt mỏi
|
|
Các
biểu hiện có thể gặp
|
|
Ngon miệng
|
Khá
|
Kém
|
ỉa chảy
|
Thường gặp
|
Thường gặp
|
Biến đổi ở da
|
ít gặp
|
Thường có viêm da, bong da
|
Biến đổi ở tóc
|
ít gặp
|
Tóc mỏng thưa, dễ nhổ
|
Gan to
|
Không
|
Đôi khi do tích luỹ mỡ
|
Hoá sinh (albumin huyết thanh)
|
Bình thường hoặc hơi thấp
|
Thấp (dưới 3g/100ml)
|
Chúng ta cần nhớ rằng
suy dinh dưỡng bắt đầu từ biểu hiện chậm lớn cho đến các thể nặng là Marasmus
và Kwashiorkor.
Trong hoạt động chǎm
sóc sức khỏe ban đầu, việc nhận biết các thể nhẹ và vừa có ý nghĩa quan trọng
đặc biệt.
Trong điều kiện thực
địa, người ta chủ yếu dựa vào các chỉ tiêu nhân trắc (cân nặng theo tuổi, chiều
cao theo tuổi, cân nặng theo chiều cao, vòng cánh tay) để phân loại tình trạng
suy dinh dưỡng. Khi đo vòng cánh tay cần sờ nắn để đánh giá tình trạng lớp mỡ
dưới da.
ở cộng đồng, cách phân loại thông dụng nhất
trước đây do Gomez F. đưa ra từ nǎm 1956 dựa vào cân nặng theo tuổi quy ra phần
trǎm của cân nặng chuẩn. Thiếu dinh dưỡng độ 1 tương ứng 75%-90% của cân nặng
chuẩn. Thiếu dinh dưỡng độ 2 tương ứng 60%-75% của cân nặng chuẩn. Thiếu dinh
dưỡng độ 2 tương ứng 60% của cân nặng chuẩn. Cách phân loại của Gomez F. đơn
giản nhưng không phân biệt được thiếu dinh dưỡng mới xẩy ra hay đã lâu.
Để khắc phục nhược
điểm đó, Wate*ow J.C. đề nghị cách phân loại như sau: Thiếu dinh dưỡng thể gầy
còm (tức là hiện đang thiếu dinh đường) biểu hiện bằng cân nặng theo chiều cao
thấp so với chuẩn, thiếu dinh dưỡng thể còi cọc (tức là thiếu dinh dưỡng trường
diễn) dựa vào chiều cao theo tuổi thấp so với chuẩn.
Bảng phân loại theo Waterlow
|
Cân
nặng theo chiều cao
(80
% hay -2SD)
|
||
Trên
|
Dưới
|
||
Chiều
cao theo tuổi
(90%
hay-2SD )
|
Trên
|
Bình
thường
|
Thiếu
dinh dưỡng gày còm
|
Dưới
|
Thiếu
dinh dưỡng còi cọc
|
Thiếu
dinh dưỡng nặng kéo dài
|
Hiện nay OMS . khuyến nghị coi là thiếu dinh dưỡng khi cân
nặng theo tuổi dưới 2 độ lệch chuẩn (-2 SD) so với quần thể tham khảo NCHS (National Center for Heaìth St'atistics) của
Mỹ. Việc sử dụng quần thể NCHS được đề ra sau khi quan sát thấy trẻ em dưới 5
tuổi nếu được nuôi dưỡng tốt thì các đường phát triển tương tự nhau. So với trị
số tương ứng ở quần thể tham khảo, người ta chia ra các mức độ sau: từ -2 đến
-3 độ lệch chuẩn: thiếu dinh dưỡng vừa (độ 1), từ -3 đến -4 độ lệch chuẩn:
thiếu dinh dưỡng nằng (độ 2), dưới -4 độ lệch chuẩn: thiếu dinh dưỡng rất nặng
(độ 3). ở các thể nặng, người ta thường dùng thang Welcome để phán biệt
giữa Marasmus và Kwashiorkor.
Thang phân loại Welcome
Cân nặng (%) so với chuẩn
|
Phù
|
|
Có
|
Không
|
|
60-80
|
Kwashiorkor
|
Thiếu dinh dưỡng
|
Dưới 60
|
Marasmus - Kwashiorkor
|
Marasmus
|
Theo tính toán, 1 SD
tương đương 10% như vậy 60% tương đương mức -4SD của cân nặng chuẩn.
Phòng chống suy dinh
dưỡng trẻ em đòi hỏi sự lồng ghép của nhiều hoạt động trong đó có các biện pháp
lớn sau đây:
1.
Theo dõi biểu đồ phát triển trẻ em.
2.
Phục hồi mất nước theo đường uống khi trẻ ỉa chảy.
3.
Nuôi con bằng sữa mẹ.
4.
Tiêm chủng theo lịch phòng các bệnh sởi, uốn ván, ho gà, bạch hầu, bại liệt và lao. .
5.
Kế hoạch hóa gia đình.
6. Giáo dục dinh dưỡng.
7.
Xây dựng hệ sinh thái VAC tạo thêm nguồn thức ǎn bổ sung.
Dưới đây chúng tôi xin
giới thiệu sâu hơn về các biện pháp dinh dưỡng.
II. CáC BIệN PHáP PHòNG CHốNG SUY DiNH DƯỡNG
1
Thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ.
Trong những nǎm gần
đây, ít có vấn đề được quan tâm nhiều trong dinh dưỡng trẻ em bằng vấn đề nuôi
con bằng sữa mẹ. Không ít các cuộc hội nghị hội thảo quốc tế và trong nước dành
riêng cho chuyên đề này. Tổ chức quỹ nhi đồng quốc tế (UNICEF) đã coi nuôi
con bằng sữa mẹ là một trong 4 biện pháp quan trọng nhất (theo dõi biểu đồ phát
triển, phục hồi mất nước do ỉa chảy bằng orêzôn, nuôi con bằng sữa mẹ và tiêm
chủng theo âm lịch tuổi) để bảo vệ sức khỏe trẻ em. Điều đó có nhiều lí do:
a) Trước hết sữa mẹ là
thức ǎn hoàn chỉnh nhất, thích hợp nhất đối với đứa trẻ. Các chất dinh dưỡng có
trong sữa mẹ đều được cơ thể hấp thu và đồng hóa dễ dàng.
b) Sữa mẹ là dịch thể
sinh học tự nhiên chứa nhiều yếu tố quan trọng bảo vệ cơ thể đứa trẻ mà không
một thức ǎn nào có thể thay thế được, đó là:
- Các Globulin miễn
dịch, chủ yếu là IGA có tác dụng bảo vệ cơ thể chống các bệnh đường ruột và một
số bệnh do virus.
- Lizozim là một loại
len có nhiều hơn hẳn trong sữa mẹ so với sữa bò. Lizozim phá hủy một số vi
khuẩn gây bệnh và phòng ngừa một số bệnhvirus.
- Lactoferrin là một
protein kết hợp với sắt có tác dụng ức chế một số loại vi khuẩn gây bệnh cần
suất để phát triển.
- Các bạch cầu: trong
2 tuần lễ đầu, trong sữa mẹ có tới 4000 tế bào bạch cầu/ml. Các bạch cầu này có
khả nǎng tiết IGA, lixozim, lactoferrin, interferon.
- Yếu tố bifidus cần
cho sự phát triển loại vi khuẩn lactobacilusbifidus, kìm hãm các vi khuẩn gây
bệnh và kí sinh trùng.
c) Nuôi con bằng sữa
mẹ là điều kiện để đứa con có nhiều thời gian gần gũi với mẹ, mẹ gần gũi với
con. Chính sự gần gũi tự nhiên đó là yếu tố tâm lý quan trọng giúp cho sự phát
triển hài hòa của đứa trẻ. Mặt khác, chỉ có người mẹ qua sự quan sát tinh tế
của mình những khi cho con bú sẽ phát hiện được sớm nhất, đúng nhất những thay
đổi của con bình thường hay bệnh lý .
Nuôi con bằng sữa mẹ
cần chú ý những điểm sau đây:
- Cho con bú càng sớm
càng tốt, bú ngay trong nửa giờ đầu tiên. Phản xạ bú của đứa trẻ kích thích
tiết sữa, mặt khác trong sữa non là loại sữa tuần đầu tiên có nhiều chất dinh
dưỡng quan trọng, nhất là chất béo và có nhiều loại IGA một yếu tố miễn dịch
quan trọng.
- Cho con bú kéo dài,
ít nhất đến 12 tháng. Mặc dù số lượng sữa ngày càng ít đi nhưng chất lượng sữa
vần tốt, do đó cho bú kéo dài là cách nâng cao chất lượng bữa ǎn của trẻ một
cách tự nhiên.
- Cho bú không cứng
nhắc theo giờ giấc, mà theo nhu cầu của trẻ . Giá trị toàn diện không thể gì thay thế được
của sữa mẹ cần được mọi người và xã hội thấm nhuần để mọi người mẹ có quyết tâm
và được tạo điều kiện để nuôi con bằng bầu sữa của mình.
2. Cho ǎn bổ sung hợp lý.
Trong 4 tháng đầu, sữa
mẹ là thức ǎn hoàn chỉnh nhất đối với đứa trẻ . Nhưng từ tháng thứ. 5 trở đi,
số lượng sữa mẹ không đáp ứng đủ nhu cầu của đứa trẻ đang lớn nhanh. Do đó các
bà mẹ cho con ǎn sam (ǎn bố sung), thông thường ở nước ta là các loại bột, nhất là bột gạo.
Mấy điểm sau đây cần
lưu ý: .
a) Thức ǎn bổ sung cần
có đǎm độ nǎng lượng thích hợp:
Trong sữa mẹ, 50% nǎng
lượng là do chất béo, trong bột gạo chỉ có 1-3% nǎng lượng do chất béo. Chế độ
ǎn có đậm độ nǎng lượng thấp thì phải ǎn nhiều hơn mới đáp ứng được nhu cầu,
điều đó không dễ thực hiện vì dạ dày
Sữa mẹ giữ vị trí
trung tâm. Các loại thức ǎn ở 4 ô xung quanh bổ sung cho sữa mẹ tùy theo nhu
cầu, mỗi Ô có vị trì riêng của nó. Trong thức ǎn bổ sung đơn giản nhất
thường gồm 2 thành phần, bột ngũ cốc phối hợp với bột đậu đỗ. Tuy nhiên thức ǎn
bổ sung hoàn chỉnh cần đại diện 4 ô trong hình vuông thức ǎn tỷ lệ thích hợp.
d) Theo dõi biểu đồ
phát triển:
Khác với bệnh nhiễm
khuẩn, suy dinh dưỡng ở trẻ em tiến triển theo một con đường quanh co
khúc khuỷu, đến khi nhận thấy thường là giai đoạn muộn Do đó, vấn đề quan trọng
là nhận biết sớm để có biện pháp can thiệp kịp thời.
Trong những nǎm gần
đây, người ta nói nhiều đến giá trị của việc sử dụng biểu đồ phát triển, coi đó
là biện pháp quan trọng để phòng chống suy dinh dưỡng. Cân nặng định kì đứa trẻ
đều hàng tháng, đứa trẻ tǎng cân, đó là biểu hiện bình thường, cân đứng yên là
biểu hiện đe dọa, nếu xuống cân là biểu hiện nguy hiểm. .
Theo dõi và sử dụng
biểu đồ phát triển là công việc tự giác có ý thức của bà mẹ chứ không phải là
hoạt động chuyên môn kỹ thuật riêng của cơ quan y tế Trong phòng chống suy dinh
dưỡng, vai trò người mẹ là trung tâm. Người mẹ nào cũng tràn đầy tình yêu và
trách nhiệm đối với con mình, biểu đồ phát triển giúp họ đánh giá đúng đắn tình
hình sức khỏe của con họ.
Chính vì vậy, sứ dụng
biểu đồ phát triển đã được tổ chức quỹ nhi đồng quốc tế (UNICEF) coi là một
trong các biện pháp chủ yếu trong chǎm sóc sức khỏe trẻ em.
Tóm lại, sử dụng biểu
đồ phát triển, nuôi con bằng sữa mẹ và thức ǎn bổ sung hợp lí, giáo dục kiến
thức dinh dưỡng cho người mẹ đó là các biện pháp quan trọng trong phòng chống suy dinh dưỡng
trẻ em. Cùng với việc xây dựng hệ sinh thái VAC (vườn, ao, chuồng) để tạo thêm nguồn thực phẩm
tại chỗ nhằm làm phong phú bữa ǎn trước hết cho trẻ em và người mẹ, chúng sẽ mở
ra triển vọng tốt cho công tác phòng chống suy dinh dường ở trẻ em nước ta.
THIếU MáU DINH DƯỡNG
VớI SứC KHỏE CộNG ĐồNG.
I ĐịNH NGHĩA
Có nhiều nguyên nhân có thể gây ra thiếu máu
trong đó đứng về phương diện sức khỏe cộng đồng 3 loại sau đây quan trọng hơn
cả:
a) Thiếu máu dinh
dưỡng.
b) Thiếu máu liên quan
với nhiễm khuẩn và kí sinh trùng mạn.
c) Thiếu máu liên quan
đến các tật di truyền của các phân tử hemoglobin (kể cả bệnh Talatxêmi).
Ba loại này không tách
biệt mà nhiều khi lồng vào nhau ví dụ một số nhiễm kí sinh trùng như giun móc
chẳng hạn làm tǎng nhu cầu các yếu tố tạo máu và thúc đẩy phát sinh thiếu máu
dinh dưỡng. Hơn nữa, trong một quần thể có tỉ lệ thiếu máu dinh dưỡng cao, đồng
thời cũng có thể có nhiều người bị thiếu máu do bệnh của hemoglobin.
Thiếu máu dinh dưỡng
không những là loại thiếu máu phổ biến nhất mà đồng thời cũng là loại dễ được
chế ngự nhờ các biện pháp can thiệp y tế.
Thiếu máu do thiếu sắt
là loại thiếu máu dinh dưỡng hay gặp nhất, có thể kết hợp với thiếu axít folic
nhất là trong thời kì có thai. Các loại thiếu máu dinh dưỡng khác như do thiếu
vitamin B12, piridoxin và đồng thời ít gặp hơn.
Các đối tượng thường
bị đe dọa thiếu máu dinh dưỡng là trẻ em học sinh và nhất là phụ nữ có thai.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, thiếu máu dinh dưỡng là tình
trạng bệnh lí xảy ra khi hàm lượng hemoglobin trong máu xuống thấp hơn bình
thường do thiếu một hay nhiều chất dinh dường cần thiết cho quá trình tạo máu
bất kể lí do gì.
Hàm lượng hemoglobin
bình thường thay đổi theo tuổi, giới, tình trạng sinh lí, độ cao so với mặt
biển và ít khác nhau theo chủng tộc. Tổ chức Y tế thế giới đã đề nghị coi là thiếu máu do thiếu sắt
khi hàm lượng hemoglobin ở dưới các ngưỡng sau đây:
Bảng 1: Ngưỡng Kb chỉ định thiếu máu theo Tồ chức Y tế thế giới
Nhóm tuổi
|
Ngưỡng
hemogolobin (g/100ml)
|
Trẻ em từ 6 tháng- 6 tuổi
|
11
|
Trẻ em từ 6 tuổi- 14 tuổi
|
12
|
Nam trưởng thành
|
13
|
Nữ trưởng thành
|
12
|
Nữ có thai
|
11
|
Có những người có lượng hemoglobin thấp hơn các
giới hạn trên không bị thiếu máu (nghĩa là cho thêm các chất dinh dưỡng tạo máu
vào mà lượng Hb vẫn không tǎng ), tuy vậy trong một quần dân cư. tỉ lệ số người
có lượng Hb thấp hơn các "ngưỡng" trên càng cao thì vấn đề thiếu máu
càng lớn.
II. ý NGHĩA SứC KHỏE CộNG ĐồNG
1.
Tỉ lệ mắc bệnh.
Dựa theo các giới hạn
"ngưỡng" đề nghị ở trên và số liệu nhiều cuộc điều tra, Tổ chức Y tế thế giới ước tính có 30% dán số thế giới bị
thiếu máu.
Bảng 2: Tỉ lệ phần trǎm thiếu máu trên thế giới (1980)
Vùng
|
Trẻ
em
0-4
tuổi
|
Trẻ
em
5-12
tuổi
|
Người
trưởng thành nam
|
Phụ
nữ 15-49
|
|
Có
thai
|
Chung
|
||||
Các nước phát triển
Các nước đang
phát triển
|
12
51
|
7
46
|
3
26
|
14
59
|
11
47
|
Chung
|
43
|
37
|
48
|
51
|
35
|
Thiếu máu hay gặp ở
các nước đang phát triển (36%) so với các nước phát triển (8%). Tỉ lệ thiếu máu
cao nhất ở châu Phi, nam á rồi đến châu Mỹ La Tinh còn các vùng khác thấp hơn. Thiếu máu hay gặp
nhất ở phụ nữ có thai 51%) rồi dện trẻ em (43%) học sinh (37%) còn ở
nam giới trưởng thành thấp lơn cả (18%) .
Người ta ước tính toàn
thế giới có khoảng 700 - 800 triệu người bị thiếu náu. Cần chú ý thêm rằng
thiếu máu chỉ là giai đoạn cuối của một quá trình hiếu sắt tương đối dài vời
nhiều ảnh hường bất lợi đổi vời sức khỏe và số giời bị thiếu sắt nhưng chưa bộc
lộ thiếu máu còn cao hơn nhiều số người bị hiếu máu thực sự.
Các điều tra dịch tể
học ở nước ta bước đầu cho thấy: tỉ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai ở Hà nội là 41% (3 tháng cuối là 49%) còn ở một số vùng nông thôn là 49% (3 tháng cuối là
59%) . Tỉ lệ thiếu máu ở trẻ em trước tuổi đi học vào khoảng 40-50%.
Như vậy thiếu máu dinh
dưỡng đang là vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng của bà mẹ và trẻ em nước ta .
2.
Hậu quả sức khỏe.
Biểu hiện thường gặp
của thiếu máu là da xanh, niêm mác nhợt nhạt, các biểu hiện thiếu oxi ở các mô. Về phương diện sức khỏe cộng đồng các
hậu quả sau đây đáng chú ý:
a) ảnh hưởng tới khả nǎng lao động:
Thiếu máu do bất kỳ
nguyên nhân nào cũng gây nên tình trạng thiếu oxi các mô, đặc biệt ở một số cơ quan như tim, não. Thiếu máu ảnh
hưởng tới các hoạt động cần tiêu hao nǎng lượng. Nghiêncứu ở nhiều nơi cho thấy nǎng suất lao động của
những người thiếu máu thấp hơn hẳn những người bình thường. Người ta còn nhận
thấy tình trạng thiếu sắt (chưa bộc lộ thiếu máu) cũng làm giảm khả nǎng lao
động.
b) ảnh hưởng tới nǎng lực trí tuệ:
Các biểu hiện mệt mỏi,
nhất ngủ kém chú ý, kém tập trùng, dễ bị kích động hay gặp ở những người thiếu máu. Kết quả học tập của học
sinh bị thiếu náu thấp hơn hẳn so với lô chứng và đã được khắc phục sau khi các
em được )ổ sung viên sắt.
c) ảnh hưởng tới thai sản:
Từ lâu người ta đã
biết thiếu máu tǎng nguy cơ đẻ non, tǎng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của mẹ và
con. Nhưng bà mẹ thiếu máu có nguy cơ đẻ còn nhẹ cân và dễ bị chảy máu ở thời kỳ hậu sản. Vì vậy người ta đã coi thiếu
máu dinh dưỡng trong thời kỳ thai nghén là một đe dọa sản khoa.
III. NGUYÊN NHÂN THIếU
MáU DINH DưỡNG
Sự hiểu biết nhu cầu
sắt của cơ thể cũng như giá trị sinh học của Fe trong thức ǎn sẽ giúp chúng ta
giải thích vì sao một số đối tượng như phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ lại có nguy cơ
cao về thiếu máu dinh dưỡng.
1.
Nhu cầu sắt
Lượng sắt trong cơ thể
rất ít chỉ có khoảng 2,5g ở nữ và 4,5g ở nam. Tuy vậy sắt giữ vai trò sinh học rất quan
trọng, chuyển hóa. gần như khép kín, cơ thể rất tiết kiệm sắt nhưng hằng ngày
vẫn bị hao hụt một ít theo các con đường khác nhau .
ở người trưởng thành lượng sắt mất đi vào khoảng
0,9mg mỗi ngày ở nam (65kg) và 0,8mg ở nữ (65kg). ở phụ nữ độ tuổi sinh đẻ ,lượng sắt mất theo
kinh nguyệt dao động khá nhiều, trung bình vào khoảng 0,4- 0,5mg mỗi ngày.
Như vậy ở đối tượng phụ nữ lứa tuổi này tổng lượng sắt
mất trung bình hằng ngày là 1,25mg và có khoảng thiếu máu xuất hiện.
Bảng 3: Nhu cầu sắt hấp thu hằng ngày (mg)
Nhóm
tuổi
|
Cân
nặng (kg)
|
Nhu
cầu
|
Trẻ em:
|
|
|
0.25-1
|
8
|
0.96
|
1-2
|
11
|
0.61
|
2-6
|
16
|
0.70
|
6-12
|
29
|
1.17
|
Nam thiếu niên 12-16
|
53
|
1.82
|
Nữ thiếu niên 12-16
|
51
|
2.02
|
Trưởng thành (nam)
|
65
|
|
Trưởng thành (nữ)
|
|
|
- Tuổi hành kinh
|
55
|
2.38
|
- mãn kinh
|
55
|
0.96
|
-Cho bú
|
55
|
1.31
|
Nhu cầu khi có thai
tùy tình trạng sắt của cơ thể trước khi có thai.
2.
Nguồn sắt trong thức ǎn.
Trong thức ǎn sắt ở
dạng Hem và không ở dạng Hem. Hem là thành phần của hemoglobin và Myoglobin, do đó
có trong thịt, cá và máu. Tỉ lệ hấp thu loại sắt này cao 20- 30%. Sắt không ở
dạng Hem có chủ yếu ở ngũ cốc rau củ và các loại hạt. Tỉ lệ hấp thu
thấp hơn và tùy theo sự có mặt của các chất hỗ trợ hay ức chế trong khẩu phần
ǎn. Các chất hỗ trợ hấp thu sắt là vitamin C, các chất giàu protein. Các chất
ức chế hấp thu sắt là các phytat, tanin. Ngoài ra tình trạng sát trong cơ thể
cũng ảnh hưởng tới hấp thu sắt.
Có thể chia các loại khẩu phần thường gặp ra làm
3 loại:
- Khẩu phần có giá trị
sinh học thấp (sắt hấp thu khoáng 5% ): chế độ ǎn đơn điệu chủ yếu là ngũ cốc,
củ, còn lượng thịt hoặc cá dưới 30g hoặc lượng Vitamin C dưới 25mg.
- Khẩu phần có giá trị
sinh học trung bình (hấp thu sắt khoảng 10%): khẩu phần có từ 30- 90g thịt cá
hoặc 25- 75mg Vitamin C.
Nếu một khẩu phần có
đủ cá 2 tiêu chuẩn trên hấp thu sắt sẽ tǎng lên rõ rệt, ngược lại nếu có nhiều
yếu tố ức chế (chè, cà phê) sẽ cản trở hấp thu.
Cǎn cứ vào nhu cầu sắt
(bảng 3) và tỉ lệ hấp thu sắt theo loại khẩuphần ta có thể tính nhu cầu sắt
thực tế như sau: cùng một loại khẩu phần có giá trị sinh học trung bình (hấp
thu sắt khoảng lo%) thì nhu cầu thực tế sắt ở nam trưởng thành là:
1,14 x 10 = 11mg/ngày.
và ở nữ ở dộ tuổi hành kinh là:
2,38 x 10 : 24 mg/ngày.
IV. CHẩN ĐOáN THIếU MáU DINH DƯỡNG
1.
Trong các điều tra sàng lọc ở cộng đồng.
Các xét nghiệm thường
dùng để chẩn đoán hemoglobin và hematocrit nhận định về tình trạng chức Y tế thế giới (bảng 1). Có thể chia ra các mức 80%, 60-80% và dưới 60% so
với ngưỡng. Trongdùng các mốc 10g/100ml, 7-10g/100ml và 7g/100ml để phân loại
các mức độ nhẹ vừa và nặng.
2.
Các xét nghiệm chẩn đoán thiếu Fe.
Khi điều kiện chỏ phép
có thể tiến hành các xét 'nghiệm sau đây:
- Ferritin huyết
thanh: Mức ferritin trong huyết thanh phản ánh dự trừ Fe trong cơ thể. ở người bình thường hàm lượng ferritin trong
huyết thanh là 70 mcg/1 ở nam và 35 mcg/1 ở nữ khi dưới 12mcg/1 coi là thiếu dự trữ sắt.
- Mức bão hòa
transferin: Hầu hết Fe trong huyết thanh đều gắn với protein là transferin. Khi
dự trữ Fe đã cạn mà tiếp tục thiếu Fe thì tỷ lệ transferin bão hòa với Fe giảm
xuống từ 30% xuống thấp hơn 15%.
- Protoporphyrin trong
hồng cầu: Do thiếu sắt, protoporphyrin không tham gia tạo Hem được nên hàm
lượng protoporphyrin tự do của hồng cầu lên cao hơn 70mcg/1.
Như vậy, trong một
quần dân cư có khả nǎng mắc bệnh thiếu máu cao, định lượng hemoglobin và
hematocrit là xét nghiệm nhạy nhất. Khi số người mắc bệnh không nhiều lắm, định
lượng ferritin có giá trị khêu gợi hơn. Các xét nghiệm transferin và
protoporphyrin có giá trị hỗ trợ.
V. Phòng chốngthiếu
máu dinh dưỡng
Có 4 hướng chính để
phòng chống thiếu máu dinh dưỡng:
1.
Bổ sung bằng viên sắt
Ưu điểm của phương
pháp này là cải thiện nhanh tình trạng thiếu máu các đối tượng bị đe dọa.
Tuy vậy đòi hỏi một hệ
thống phân phối và theo tốt Trong điều kiện nguồn thuốc và cán bộ hạn chế nên
dành ưu iên cho đối tượng có tỷ lệ mắc bệnh cao như người mẹ có thai, trẻ em,
học sinh và lao động một số ngành nghề.
Các tác dụng phụ của
viên sắt là: khó chịu ở thượng vị, buồn nôn, nôn, táo bón, ỉa lỏng.
Nên dùng viên sắt sau bừa ǎn thì dễ chịu hơn khi đó. Cần chú ý có thể do các
tác dụng phụ này mà đối tượng ngừng uống. Phần lớn phụ nữ có thai đều thiếu máu
vì vậy nên tổ chức uống đại trà cho loại đối tượng này. Đối với những người
không thiếu máu, việc uống viên sắt không gây ra tác hại gì.
Bảng 4: Các loại viên sắt thường dùng
Loại
|
Hợp chất sắt (mg/viên)
|
Sắt nguyên tố (mg/viên)
|
% Fe
|
Ferơ sulfat (7 H2O)
|
300
|
60
|
20
|
Ferơ sulfat (anhydit)
|
200
|
74
|
37
|
Ferơ sulfat (khô, 1 H2O)
|
200
|
60
|
30
|
Ferơ gluconat
|
300
|
36
|
12
|
Ferơ fumarat
|
200
|
66
|
33
|
Liều dùng:
- Phụ nữ có thai: nên
cho 2 viên có 60 mg sắt nguyên tố và 250 mcg folat vào kỳ hai của thời kỳ có
thai nghĩa là tổng liều khoảng 250 viên. Có thể ban đầu uống liều thấp hơn để
mọi người dễ dàng thực hiện.
Tuy vậy vấn đề chính
vẫn là giải thích cho các bà mẹ hiểu rằng họ thiếu Fe trong thời kỳ có thai để
tự nguyện uống đủ liều.
- Trẻ em trước tuổi đi
học: Nên cho thành đợt ngắn 2-3 tuần mỗi ngày 30 mg Fe nguyên tố dạng viên hoặc
dạng nước vài ba lần mỗi nǎm.
- Học sinh: Thường
thường, tỷ lệ thiếu máu ở lứa tuổi này thấp hơn ở người mẹ có thai và
trẻ em trước tuổi đi học. Nên cho theo đợt ngắn, liều hàng ngày từ 30mg- 60mg
sắt nguyên tố tùy theo tuổi và trọng lượng. Đối với trẻ em dưới 1 tuổi, chủ yếu
dựa vào sắt trong sữa mẹ và cho ǎn bổ sung hợp lý (có nhiều Fe và Vitamin C).
2.
Cải thiện chế độ ǎn.
Trước hết chế độ ǎn
cần cung cấp đầy đủ nǎng lượng và các thực phẩm giàu Fe (thức ǎn động vật, dậu
đỗ). Đồng thời cần tǎng cường khả nǎng hấp thu Fe nhờ tǎng lượng vitamin C từ rau quả (ô dinh dưỡng, vườn rau gia đình).
Tỷ lệ hấp thu của Fe không ở dạng Hem tǎng lên thuận chiều với lượng
vitamin C trong khẩu phần. Nên khuyến khích các cách chế biến như nẩy mầm,
lên men (giá đỗ, dưa chua) vì các quá trình này làm tǎng lượng vitamin C và giảm lượng tanin và axit phytic trong thực
phẩm.
3.
Giám sát các bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm virus và ký sinh trùng?
Chưa nói đến cải thiện
chế độ ǎn, chỉ riêng việc định kỳ tẩy giun, giảm bớt lần mắc các bệnh nhiễm
khuẩn đã cải thiện rõ rệt đến tình trạng dinh dưỡng của Fe. Đồng thời cần chú ý
chế độ ǎn hợp lý trong và sau khi mắc các bệnh nhiễm khuẩn.
4.
Tǎng cường Fe cho một số thức ǎn:
Đây là một hướng kỹ
thuật khó khǎn nhưng đang được thǎm dò ở nhiều nước. Vấn đề đặt ra là đảm bảo hoạt tính
sinh học của Fe mà không gây ra mùi vị khó chịu cho thực phẩm. Các loại thực
phẩm được thử nghiệm tǎng cường là gạo, muối, đường, nước mắm, bột cá, chè.
Tóm lại, thiếu mầu
dinh dưỡ ng đang là vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng ở bà mẹ và trẻ em nước ta. Vì vậy việc phòng
chống bệnh này cần được coi là mục tiêu quan trọng của ngành trong thời gian
tới.
THIếU VITAMIN A Và BệNH KHÔ MắT
I. ý NGHĩA THờI Sự CủA VấN Đề
Bệnh quáng gà là một
biểu hiện sớm của thiếu Vitamin A đã được biết đến từ thời cổ Hy lạp- La mã mà
danh y Hypocrat đã dùng gan để chữa bệnh này. Nǎm 1913, E.V. Mc Colum đã phân
lập được một số yếu tố tan trong dầu cần thiết cho quá trình phát triển và
phòng bệnh khô mắt nǎmi932 người ta đã tách ra được các vitamin A và D.
Mặc dù vậy, cho đến
ray bệnh khô mắt do thiếu Vitamin A mà hậu quả bi thảm của nó là mù, vẫn đang là
mối đe dọa đối với trẻ em của nhiều nước trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới, hàng nǎm có trên nửa triệu trẻ em
bị mù. Ngoài ra, có tới 6-7 triệu trẻ em bị thiếu Vitamin A thể nhẹ hoặc vừa làm cho các cháu này dễ bị
cảm nhiễm với các bệnh nhiễm khuẩn như ỉa chảy và viêm đường hô hấp.
Tại hội nghị quốc tế
về mù dinh dưỡng (10/1985) Tổ chức Y tế thế giới đã phát động chương trình
10 nǎm hỗ trợ cho các hoạt động phòng chống bệnh này. Thiếu Vitamin A và bệnh khô mắt đang là một bệnh thiếu dinh
dưỡng hay gặp ở trẻ em nước ta đặc biệt ở các cháu bị suy dinh dưỡng nặng, sau các bệnh
ỉa chảy, nhiễm khuẩn đường hô hấp, sởi. Sự phổ biến của bệnh này thường gặp
ởcác vùng kinh tế và vǎn hóa chưa phát triển, nguồn thức ǎn chay phong phú.
Người ta thấy mối liên quan chặt chẽ của tỷ lệ mắc khô mắt với một tỷ lệ suy
dinh dưỡng cao, cũng như mức độ tổn thương ở mắt do thiếu Vitamin A nặng nề cũng ở những trẻ suy dinh dường nặng.
II. BIểU HIệN LÂM SàNG Và ĐáNH GIá TìNH TRạNG
THIếU VITAMIN A
1.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh khô mắt.
Dấu hiện lâm sàng sớm
nhất của bệnh khô mắt là "quáng gà" đứa trẻ với biểu hiện không nhìn
được lúc chập choạng tòi, thường đứa trẻ sợ và ngồi một chỗ , đi hay vấp ngã
vào thời điểm đó , cũng có khi người mẹ kể là đứa trẻ đi không đúng chỗ khi sai
đi lấy một vật gì đó. Dấu hiệu này khó phát hiện ở những trẻ còn nhỏ và không
phát hiện được ở những trẻ chưa biết đi. Những dấu hiệu nặng hơn với các thể lâm sàng sau:
+ Khô kết mạc: Kết mạc sù sì không nhẵn, mất sắc
bóng láng, có màu vàng nhạt ở kết mạc nhãn cầu, có cá ở kết mạc mi. Khi kết mạc khô không thấm nước,
không trong suốt, có màu đục như sữa do các bọt nhỏ của hiện tượng tǎng sừng
hóa, các vi kết mạc không nhìn rõ. Kết mạc có thể dầy lên, nhǎn nheo, kết mạc
sắc tố hóa có màu vàng nhạt xám xẩm, hoặc các hạt nhỏ rải rác. Kết mạc có những
chất cặn đọng màu kem nâu đọng ở góc mi.
+ Vệt Bitot: Dấu hiệu vệt Bitot được coi là
triệu chứng đặc trưng của thiếu vitamin A, được Bitot mô tả nǎm 1863. Vệt Bitot
là đám tế bào dày lên có màu trắng xám nổi lên trên bề mặt nhãn cầu, bề mặt phủ
một' lớp bọt nhỏ li ti hoặc lổn nhổn nổi lên trên bề mặt nhãn cầu. Hình dáng
của vệt Bitot thường là hình tam giác đáy quay vào rìa giác mạc, hoặc có hình
van, thường có ở cả hai mắt.
+ Khô giác mạc: Với triệu chứng cơ nǎng đứa trẻ
chói mắt sợ ánh sáng, hay nhắm mắt, nheo mắt. Giác mạc biểu hiện sự mất bóng
sáng, sù sì và khô, nặng hơn thì có những chấm thẫm nhiễm tế bào viêm, đục mờ
như làn sương phủ, thường hay ở nửa dưới giác mạc.
+ Loét nhuyễn giác mạc: ở thể nặng này đứa trẻ rất sợ ánh sáng, mắt luôn
nhắm nhắm nghiền, chảy nước mắt. Tùy mức độ loét sâu nông và diện tích nhỏ thì
như hạt đỗ nhỏ, màu trắng đục do bội nhiễm, nặng có thể diện tích tới gần 1/3
diện tích giác mạc và có trường hợp trên 1/3 hoặc toàn bộ giác mạc. Có khi có hiện tượng phồng màng, hoại tử có thể
thủng giác mạc, phòi mống mắt.
+ Sẹo giác mạc: Là hậu quả khô giác mạc, loét
giác mạc tùy mức độ trước đó mà sẹo có thể chỉ như những chấm nhỏ, hoặc như
khói phủ, nặng hơn sẹo có thể to, có thể toàn bộ giác mạc dẫn tới mù.
+ Tổn thương đáy mắt: Dùng đèn soi đáy mắt chúng
ta có thể phát hiện tổn thương đáy mắt do thiếu vitamin A với biểu hiện đáy mắt
điểm vàng có những chấm nhỏ thường ở rìa các mạch máu võng mạc.
2.
Đánh giá tình trạng thiếu Vitamin A và bệnh khô mắt.
Đánh giá đúng đắn tình
trạng thiếu vitamin A là yêu cầu đầu tiên để có một chương trình phòng chống hữu hiệu,
có cǎn cứ khoa học. Để đạt được mục tiêu này, người ta thường phối hợp các đánh
giá về lâm sàng, .hóa sinh và điều tra khẩu phần.
a.
Danh giá lâm sàng:
ở những người dinh dưỡng hợp lý, dự trữ vitamin A tương đối lớn và đủ cho cơ thể trong một thời
gian dài. Các triệu chứng thiếu vitamin A thường gặp ở trẻ em, đặc biệt từ 6 tháng tuổi đến 6 tuổi vì
dự trữ Vitamin A của chúng ít hơn và nhu cầu cao hơn.
Mặc dù bệnh thiếu
Vitamin A có biểu hiện toàn thân sững các biểu hiện ở mắt vẫn là tiêu biểu và đặc hiệu hơn cả.
Thang phân loại gần
đây nhất (1982) của Tổ chức Y tế Thế giới (OMS) về các biểu hiện lâm sàng của bệnh
khô mắt như sau:
Thang
phân loại các biểu hiện lâm sàng của bệnh khô mắt:
Khi tỷ lệ mắc bệnh
vượt quá 1 trong 4 chỉ tiêu lâm sǎng có thể kết luận ở đấy có vấn đề của bệnh khô mất, ch.ỉ tiêu hóa
sinh giúp thêm để khẳng định.
c
Điều tra khẩu phần:
Bệnh khô mắt do thiếu
vitamin A thường gặp ở trẻ em dưới 6 tuổi có nhu cầu cao và chế độ ǎn
thường nghèo các thức ǎn có nhiều vitamin A. Do đó, hỏi tiền sử ǎn uống hoặc
điều tra khẩu phần là việc cần thiết tuy vậy không dễ dàng nhất là đối với trẻ
bé. Trong điều tra ǎn uống cần chú ý
tìm hiểu tình hình
nuôi con bằng sữa mẹ, các nguồn thức ǎn giàu vitamin A và caroten có sẵn ở địa phương, các dao động theo mùa và các tập
quán ǎn uống đặc biệt là cách cho trẻ ǎn sam, cách cho ǎn khi trẻ bị ỉa chảy
hoặc các bệnh nhiễm khuẩn. Dưới đây là một số chỉ tiêu gợi ý để đánh giá mức
vitamin A trong khẩu phấn của trẻ. .
Bảng 5: Chỉ tiêu đánh
giá tình trạng dinh dưỡng vitamin A ở trẻ em
Tình trạng
|
Vitamin A trong khẩu phần m g hay mcg/ ngày
|
Vitamin A ở gan (mg/kg)
|
Vitamin A trong khẩu phần m g hay mcg/ ngày
|
Biểu hiện lâm sàng
|
Đủ
|
Trên 400
|
Trên 20
|
Trên 20
|
Không có
|
Vùng sáng giới hạn
|
200-400
|
10-20
|
10-20
|
Có thể có biểu hiện chậm lớn, ǎn
kém ngon, giảm sức đề kháng với nhiễm khuẩn
|
Giới hạn đe doạ bệnh lý
|
Dưới 200
|
Dưới 10
|
Dưới 10
|
Xuất hiện các biểu hiện lâm sàng
(quáng gà, khô giác mạc, loét và nhũn giác mạc)
|
II. PHòNG CHốNG BệNH
THIếU VITAMIN A
Để đạt các mục tiêu
"sức khỏe cho mọi người nǎm 2000" phòng chống bệnh thiếu Vitamin A đang là vấn đề rất đáng chú ý, trước hết đối
với trẻ em. Cần dành ưu tiên thích đáng cho bệnh này vì nguyên nhân đã biết rõ
và nguồn Caroten và Vitamin A vốn sẵn có trong tự nhiên. Hoạt động phòng
chống thiếu Vitamin A bao gồm các điểm sau đây:
1
Cải thiện bữa ǎn.
Chế độ ǎn hàng ngày
cần cung cấp đủ vitamin A và caroten. Vitamin A chỉ có trong thức ǎn động vật, nhưng caroten
vốn sẵn có ở rau có màu xanh đậm, các loại củ quả có màu da .cam. Bữa ǎn hàng
ngày phải có rau xanh, bát bột của các cháu phải có màu hoặc màu xanh của rau
nghiền, hoặc màu đỏ của cà rốt. Các loại thức ǎn giàu caroten thường kèm theo
nhiều chất dinh dưỡng quý khác như riboflavin, vitamin C, canxi, sắt và các yếu
tố vi lượng. Chế độ ǎn của trẻ nên có thêm chất béo để hỗ trợ hấp thu caroten. ở nước ta, các loại rau có hàm lượng caroten đang chú ý là
rau muống, rau ngót; xà lách, rau diếp, rau giền, hành lá, hẹ lá, rau thơm, các
loài củ quả như cà rốt, gấc... Do đó mỗi gia đình nên có một khoảng đất trồng
rau.
2.
Tǎng cường Vitamin A trong một số thức ǎn.
Người ta đã nghiên cứu
có kết quả việc tǎng cường Vitamin A vào một số thức ǎn như mỡ macgarin, bột sữa
gầy (châu âu đường (một số nước Trung Mỹ) và mì chính (Philippirle). Quan
trọng nhất là tǎng cường vitamin A vào sữa gầy vì loại này hay được sử dụng trong
các chương trình dinh dưỡng ở các nước mà bệnh khô mắt đang lưu hành. Trước
khi phân phối bột sữa gầy phải kiểm tra xem loại sữa này đã được tǎng cường
vitamin A chưa.
3.
Cho viên nang vitamìn A liều cao.
ở những vùng đã phát hiện có vấn đề thiếu
vitamin A, song song với các biện pháp dài hơn việc cho uống các viên nang
vitamin A liều cao là biện pháp trước mắt có hiệu quả ngay.
Thông thường người ta
cho uống dự phòng 1 viên nang 200.000 UI (đơn vị quốc tế) mỗi nǎm 2 lần (đối với trẻ
dưới 12 tháng cho 1 viên nang 100.000 UI) Trong trường hợp nguồn vitamin A có hạn, người ta định ưu tiên cho các vùng có
tỷ lệ mắc bệnh cao và các nhổm trẻ bị đe dọa nhất như các cháu bị suy dinh
dưỡng vừa và đặng, các cháu vừa mắc bệnh sởi, ho gà, ỉa chảy...
Trong trường hợp gặp
các bệnh đang tiến triển (bất kỳ ở giai đoạn nào) phác đồ điều trị theo Tổ chức Y tế thế giới như sau:
- Ngay sau khi chẩn
đoán: 200.000 UI theo đường uống hoặc 100.000 UI tiêm bắp.
- Ngày hôm sau:
200.000 UI theo đường uống.
- 2-4 tuần lễ sau,
hoặc bệnh nặng thêm hoặc trước khi xuất viện 200.000 UI theo đường uống. Phác đồ này vừa để điều trị
tình trạng thiếu vitamin A đang tiến triển, vừa tǎng dự trữ vitamin A ở gan. Đối với trẻ em dưới 1 tuổi dùng 1/2
liều nói trên. Chỉ tiêm bắp bằng chế phẩm vitamin A tan trong nước (chứ không phải dung dịch dầu)
khi bệnh nhân bị nôn hoặc ỉa chảy nặng. Mọi người đều biết các bệnh nhiễm
khuẩn, nhất là sởi cũng tác động đến mắt nên đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ
thiếu vitamin A. Do đó, công tác phòng chống bệnh thiếu dinh dưỡng và nhiễm
khuẩn phải được triển khai trong các hoạt động của chǎm sóc sức khỏe ban đầu.
BƯớU Cổ DO THIếU IốT
Bệnh bướu cổ do thiếu
iốt là một bệnh có tầm quan trọng lớn ở các vùng núi Việt Nam. Theo số liệu của Bệnh
viện Nội tiết, vùng bướu cổ Việt Nam hiện nay đã được xác định bao gồm toàn bộ
vùng núi thuộc 15 tỉnh với một số dân cần được phòng bệnh khoảng 7 triệu người.
Tỷ lệ mắc bệnh chung ở miền núi phía bắc là 38%, ở miền núi trung bộ là 27%, và ở Tây Nguyên là 29%. ở các vùng bướu cổ nặng tỷ lệ mắc bệnh thiểu trí
(Crenitism) vào khoảng 1 8-2%. Nǎm 1993 một cuộc điều tra trên 3000 trẻ em lứa
tuổi học sinh cho thấy 94% có biểu hiện thiếu iốt trong đó 55% thiếu nặng, 23%
thiếu vừa, 16% thiếu nhẹ. Đáng chú ý là ở nhiều vùng đồng bằng củng bị thiếu iốt:
A. NGUYÊN NHÂN Và ý NGHĩA SứC KHOẻ Xã HộI
Nội tố của tuyến giáp
trạng là tyroxin cần thiết cho sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ em
và điều hòa tiêu hao nǎng lượng. Iốt là thành phần cơ bản của tyroxin, đó là
một chất dinh dưỡng thiết yếu đối với cơ thể với nhu cầu hàng ngày chỉ từ 0,1
-0,15 mg. Hàm lượng chất iốt trong thức ǎn cả thực vật và động vật phụ thuộc
vào hàm lượng iốt có trong đất ở địa phương đó. ở nhiều nơi, nhất là vùng núi, đất và nước rất
nghèo chất iốt. ở một số thức ǎn như sắn, bắp cải có một số hợp chất chứa
thioglycozit, thioxyanit có khả nǎng gây bướu cổ trên thực nghiệm nhưng chưa có
cǎn cứ để chứng minh vai trò đó ở người.
Khi thiếu iốt trong
khẩu phần, sự tạo thành hocmôn tyroxin bị giảm sút. Để bù trừ vào thiếu hụt đó
tuyến giáp trạng dưới sự kích thích của hoocmôn tuyến yên phải sử dụng có hiệu
quả hơn nguồn iốt đang có và phì to dần. Trong phần lớn trường hợp, sự phì to
tuyến giáp trạng biểu hiện một cơ chế bù trừ nên chức phận của nó vẫn duy trì
được bình thường. Tuy vậy nếu tình trạng thiếu iốt quá trầm trọng thì có thể
xuất hiện thiểu nǎng tuyến giáp. Vấn đề nghiêm trọng nhất của thiếu iốt là ảnh
hưởng đến sự phát triển của bào thai. Người ta thấy rằng, nếu chế độ ǎn thời kỳ
có thai nghèo iốt có thể ảnh hưởng đến nǎng lực trí tuệ của đứa con sau này. ở vùng bướu cổ nặng ngoài một số ít trẻ bị chứng
thiểu trí còn có nhiều trẻ khác khả nǎng phát triển trí tuệ kém. Điều đó ảnh
hường rất lớn đến. cá một cộng đồng sau này.
B. PHÂN LOạI
Cách phân loại đơn
giản nhất là dựa vào kích thước của bướu cổ.
Bảng 6. Phân loại bướu cổ.
Độ
|
Mô
tả
|
Oa
|
Tuyến
giáp bình thường
|
Ob
|
Tuyến
giái trạng to, không bình thường nhưng chưa nhìn thấy khi ngửa cổ
Bướu
cổ nhìn thấy khi ngửa đầu
|
1
|
Bướu
cổ nhìn thấy khi đầu ở tư thế bình thường
|
2
|
Bướu
cổ nhìn thấy từ xa
|
3
|
|
Khi
có cục thì ghi thêm kí hiệu N, ví dụ độ 2N
|
Người ta gọi , là bệnh
bướu cổ địa phương khi.
- ít nhất 5% thiếu
niên có bướu cổ độ 1 trở lên.
- ít nhất 30% số người
trưởng thành có bướu có độ Ob trở lên.
ở những nơi có trên 5% số em gái 12-14 tuổi có
giáp trạng phì đại (từ độ Ob trở lên) đòi hỏi phải có chương trình can thiệp. ớ các vùng có bướu cổ địa phường, các biểu hiện
lâm sàng thường xuất hiện ở các em gái hơn là các em trai. ở nữ giới do nhu cầu iốt tǎng lên trong thời. kỳ
có thai và cho con bú nên các bướu cổ thường to lên dần ngược lại ở nam giới chúng có khuynh hướng nhỏ dần đi sau
thời kỳ dậy thì.
C. PHòNG CHốNG BệNH
BƯớU Cổ
Phòng chống bướu cổ
địa phương là phải thỏa mãn nhu cầu iốt của nhãn dân vùng đó bằng cách này hay
cách khác. Thông qua quá trình phát triển kinh tế và mở mang màng lưới giao
thông, các thức ǎn có nhiều iốt ở vùng biển có điều kiện chuyên chở lên miền
núi, đó là những biện pháp dài hơn đòi hỏi thời gian và đầu tư lớn. Vì vậy cần
phải song song tiến hành các biện pháp can thiệp trực tiếp, cụ thể là:
1.
Trộn iốt vào muối ǎn
Đó là biện pháp đã và đang được áp dụng có hiệu
quả ở nhiều nước. Mức thích hợp là một phần iốt cho 25.000 đến 50.000
phần muối. ở Việt Nam, công thức trộn là một 2,5 gam kaliiodat và 25,5 gam
canxi-cacbonat (chất ổn định) cho túi muối 50 kg. 2. Tiêm bắp dầu iốt hóa. ở những vùng quá xa xôi cách trở và nhất là có
tỷ lệ mắc bệnh cao người ta áp dụng phương pháp tiêm bắp dầu iốt hóa cho phụ nữ
ở thời kỳ sinh đẻ.
Nhờ chất iốt trong dầu
hấp thụ chậm nên mỗi lần tiêm có thể đáp ứng được nhu cấu từ 3 đến 5 nǎm. Nếu
biện pháp này được áp dụng khi mới bắt đầu có thai , nó phòng ngừa được tình
trạng thiểu trì đối với đứa trẻ sau này.
Vấn đề tồn tại là giá
thành quá đắt. ở nước ta, từ những nǎm 1980, đã áp dụng thí điểm tiêm lipiodol ở một số vùng núi cao và hẻo lánh. Từ tháng 1
nǎm 1995, chính phủ đã chủ trương toàn dân dùng muối iốt.
BệNH TÊ PHù (BERI BERI) DO THIếU VITAMIN B1
Beriberi là một bệnh
thiếu dinh dưỡng hay gặp ở những nước ǎn gạo. ở nước ta, bệnh còn lưu hành nhất là vào các
thời kỳ giáp hạt, sau úng lụt, ở các địa phương và các đơn vị ǎn gạo có lệ xay
xát cao và nghèo các thức ǎn bổ sung. Ba thể lâm sàng hay gặp là:
- Thể ướt biểu hiện
bằng phù và thường kèm theo suy tim.
- Thể khô: Viêm đa dây
thần kinh.
- Thể trẻ em.
Bệnh có thể xảy ra
thành dịch khi nhiều người cùng ǎn chế độ ǎn giống nhau dựa trên cùng một loại
gạo. Thiếu Vitamin Bl còn gây ra một số bệnh cảnh lâm sàng hay gặp ở những
người nghiện rượu. Đó là:
- Viêm đa dây thần
kinh do rượu mà về lâm sàng không phân biệt được với Be ri be ri thể khô .
- Viêm cơ tim điều trị
hiệu quả bằng Vitamin B1.
- Một thể viêm não gọi
là hội chứng Wernicke Korsakoff.
A. CáC THể LÂM SàNG
Bệnh bắt đầu bằng các
triệu chứng kín đáo. Trước tiên có thể thấy kém ǎn, khó chịu, đi lại khó vì
chân yếu và nặng, đôi khi có phù nhẹ ở mặt, thường đánh trống ngực và hay đau vùng
trước tim, mạch hơi nhanh. Có cảm giác đau ở các cơ bắp chân và tê ở các chi. Phản xạ gân thường giảm, đôi khi
tǎng. Tình trạng trên có thể kéo dài, cuộc sống và lao động tuy có vẻ bình
thường nhưng nǎng suất kém. Bất kỳ lúc nào bệnh cũng có thể chuyển sang các thể
nặng hơn.
1
Thể ướt.
Phù là bệnh cảnh tiêu
biểu, có thể xuất hiện nhanh không những ở các chi mà cả ở mặt, thân và các hốc thanh mạc. Một đặc điểm
cần lưu ý trong phù do thiếu vitamin B1 là phù từ dưới chân lên và bao giờ cũng
đối xứng. Bệnh nhân thường đánh trống ngực và có thể khó thở, ǎn kém và khó
tiêu.
Các chi thường đau khi
đi lại, cơ bắp chân thường sưng và đau khi ấn vào. Các tĩnh ltỉạch cổ thường
nổi lên và đập mạnh. áp lực tâm trương thấp và áp lực tâm thu cao lên một cách
không cân đối, mạch thường nhanh, da nóng do hiện tượng giãn mạch. Khi tim bắt
đầu suy, da lạnh và tái nhất là ở mặt. Điện tâm đồ thường không đổi có khi có
điện thế thấp, sóng T ngược chiều, tim to nhất là bên phải. Không có
albumin niệu, tinh thần bệnh nhân bình thường. Bệnh nhân có thể phù nặng, suy
tim, khó thở và chết.
2.
Thể khô.
Bệnh cảnh chính là
viêm và liệt nhiều dây thần kinh ngoại vi biểu hiện bǎng sự suy yếu đối xứng
hoặc mất cảm giác, vận động và các chức phận phản xạ thường là đoạn dưới của
các chi. Các cơ bị teo và suy yếu dần, đi lại trở nên khó khǎn. Bệnh nhân gầy
mòn, lúc đầu phải chống gậy và cuối cùng không đi lại được ít khi gặp biểu hiện
ở thần kinh trung ương. Bệnh mang tính chất kinh diễn và có thể
lui khi chế độ ǎn được cải thiện. Tình trạng suy mòn, liệt giường và rất dễ bị
nhiễm khuẩn, nhiều khi bệnh nhân chết do lỵ hoặc lao phổi.
3.
Beriberi trẻ em.
Thường gặp ở những trẻ còn bú mẹ từ 2-5 tháng. Mẹ của các
cháu có thể không có biểu hiện lâm sàng nhưng đã ǎn một chế độ ǎn nghèo vitamin
và sữa của họ tiết ra cũng vậy.
Có thể cấp tính, có thể kinh diễn. ở thể cấp tính tim suy nhanh chóng: người mẹ có
thể nhận thấy đứa trẻ bứt rứt và có triệu chứng khó thở. Đứa trẻ có thể đột
ngột tím tái, co giật, khó thở, hôn mê và chết trong vòng 24 -48 giờ. Các
trường hợp nặng có thể gặp biểu hiện mất tiếng từng phần hay hoàn toàn, tiếng
khóc rên rỉ. .
Thể kinh diễn ít gặp
hơn, triệu chứng chủ yếu do rối loạn tiêu hóa: nôn, táo bón dai dắng, ngủ hay
quấy. Các cơ thường nhão, giảm trương lực cơ. Da nhợt nhạt và thường có tím tái
quanh môi. Bệnh nhân có thể suy tim và chết đột ngột.
4.
Hội chứng Wernicke-korsakoff.
Đó là một hội chứng thần kinh - tinh thần hay gặp
ở bệnh nhân nghiện rượu do thiếu tiamin.
Các cơ ớ mặt bị yếu, bệnh nhân khó nhìn lên hoặc hai
bên, có khi mất phương hướng và mệt mỏi, có khi mắt bị chứng giật nhãn cầu và
người lảo đảo. Trước khi chưa biết điều trị bằng tiamin, tỉ lệ tử vong khá cao.
Các biểu hiện tinh
thần thường là giảm trầm trọng khả nǎng nhớ và học nhưng các quá trình tư duy
khác lại ít bị ảnh hưởng. Có khi bệnh nhân quên hắn những chuyện vừa xảy ra
trong ngày nhưng lại bịa ra những chuyện đã qua.
Hội chứng này hay gặp
ở những người nghiện rượu vì các đối tượng này dự trữ tiamin
thường ít, tuy vậy vẫn cần tìm hiểu thêm về mối quan hệ giữa rượu và tiamin và
các tổn thương ở não.
B. ĐIều TRị Và PHòNG BệNH.
1
Điều trị.
Khi đã xác định bệnh
tê phù, cần điều trị càng sớm càng tốt. Nghỉ ngơi hoàn toàn và tiêm bắp lập tức
liều 25mg tiamin hai lần/ngày, trong 3 ngày, sau đổ cho uống liều 10mg tiamin
hai hoặc ba lần mỗi ngày cho đến khi phục hồi. Đồng thời cải thiện chế độ ǎn để
giảm dần lượng thuốc. ở trẻ em cần cho tiêm bắp liều 10- 20mg/ngày
trong 3 ngày đầu. Sau đó cho uống liều 5-10mg/hai lần trong ngày. Đồng thời cho
người mẹ uống 10mg tiamin hai lần mỗi ngày. ở các trường hợp nặng hoặc hơn mê, co giật, liều
ban đâu có thể lên tới 25-50mg tiêm mạch máu rất chậm.
2.
Phòng bệnh.
- Gạo là nguồn cung
cấp vitamin B1 quan trọng do đó cần chú ý đến tỉ lệ xay xát thích hợp, không
được quá trắng và phải bảo quản gạo tốt.
- Tǎng cường các thực
phẩm giàu vitamin B1 trong khẩu phần ǎn hằng ngày đặc biệt là họ đậu, rau đậu.
.
- Giáo dục dinh dưỡng
nhất là đối với người mẹ trong thời kì có thai và cho con bú.
- ở một số thời kì (sau úng lụt, giáp hạt) hoặc
một số đối tượng (người mẹ có thai, cho con bú, trẻ em) có thể bổ sung vitamin
hoặc các viên cám.
-Phòng chống nạn
nghiện rượu
Bệnh còi xương
Còi xương là một bệnh
biểu hiện bằng rối loạn quá trình cột hóa có liên quan đến rối loạn chuyển hóa
photpho-canxi do cơ thể thiếu vitamin D và thường gặp ở trẻ em đang thời kì lớn nhanh. Ngày nay người
ta coi còi xương là một bệnh dinh dưỡng chịu sự chi phối lớn ~la điều kiện môi
trường. Nước ta là một nước nhiệt đới giàu ánh sáng mặt trời nhưng bệnh còi
xương vẫn là một vấn đề sức khỏe trẻ em cần quan tâm.
A. NGUYÊN NHÂN Và BIểU HIệN CủA BệNH.
1
Nguyên nhân
Nguồn vitamin D của cơ thể dựa vào thức ǎn và tổng hợp từ các
sterol. Nói chung các thức ǎn lều nghèo vitamin D (kể cả sữa mẹ và sữa bò). Một số thức ǎn có
nhiều vitamin D là các loại cá, trứng, gán: Đặc biệt là loại dầu gan cá biển như
cá thu có rất nhiều vitamin D.
Dưới tác dụng của tia
tử ngoại, chất 7-dehydrocolexterol có ở các lớp sâu dưới da sẽ chuyển thành
coilecanxiferol (vitamin D3). Như vậy, vitamin D không thật là một vitamin theo đúng nghĩa của
nómà gần với hoc môn hơn.
2.
Biểu hiện. .
Về lâm sàng có các
triệu chứng ở xương như mềm hộp sọ, lâu liền thóp; chuỗi hạt sườn, to các đầu
chi (không đau), biến dạng thân xương đùi và cẳng chân (vòng kiềng). Các biến
đổi có thể ởxương cột sống, xương chậu gây gù, vẹo và hẹp khung chậu sau này.
Các biểu hiện lâm sàng nói trên thường đi kèm theo tình trạng giảm trương lực
cơ.
Các xét nghiệm X-quang và hóa sinh có ý nghĩa quan
trọng, lượng phophataza kiềm thường tǎng lên rõ rệt. Trong điều kiện thực địa
kết luận còi xương khi ó ít nhất 2 trong số các triệu chứng sau đây: chuỗi hạt
sườn, to đầu chi, mềm hộp sọ, biến dạng đặc biệt ở lồng ngực kèm theo giảm trương lực cơ.
3.
Các yếu tố thuận lợi.
- Bệnh thường xuất
hiện ở trẻ em 6 đến 18 tháng, nhưng trẻ dưới 6 tháng cũng có.
- ǎn uống: chế độ ǎn
nghèo thức ǎn động vật (lòng đỏ trứng, cá, mỡ, gan).
- Nhiễm khuẩn: còi
xương hay xuất hiện sau các nhiễm khuẩn kéo dài và lặp di lặp lại. Điều đó có
lẽ do đứa trẻ bị giữ trong nhà quá lâu, ít thời gian tiếp xúc với ánh sáng mặt
trời.
- Nhà ở hoặc nhà trẻ thiếu ánh sáng, kém vệ sinh, ít
thời gian cho trẻ ở ngoài trời.
B.
PHòNG BệNH CòI Xương.
ở những nước đầy đủ ánh nắng mặt trời quanh nǎm
như ở nước ta, phòng bệnh còi xương chủ yếu dựa vào cải thiện điều
kiện sống và vệ sinh cho các cháu. Điều đó đòi hỏi:
- Giáo dục vệ sinh,
dinh dưỡng cho các bà mẹ và các cô nuôi dạy trẻ.
- Cải thiện điều kiện
nhà ở và nhà trẻ
Khi thiếu điều kiện
trên phải bổ sung thêm vitamin D thông qua:
- Các thức ǎn đã tǎng
cường vitamin D (bơ, mỡ thay bơ).
- Cho vitamin D theo đường uống: hoặc mỗi ngày 1000 UI hoặc 6 tháng một lần liều cao (5-10mg tức là
200.000 đến 400.000 UI cho trẻ em dưới 18 tháng).
Tóm lại phòng bệnh còi
xương đòi hỏi kết hợp giáo dục với chǎm sóc xã hội.