MộT Số KHáI NIệM VÊ ǍN UốNG CủA NGƯờI BệNH
Dinh dưỡng điều trị
học là một ngành khoa học về ǎn uống cho người bệnh. Nó nghiên cứu và đưa ra những nguyên tắc ǎn uống
cho những bệnh khác nhau.
Nhiệm vụ của dinh
dưỡng điều trị là đưa liệu pháp ǎn uống vào phối hợp với các phương tiện điều
trị khác (thuốc, lý liệu pháp...).
Phần thực hành của
dinh dưỡng điều trị là nấu các chế độ ǎn điều trị, là nơi thực hiện nhu cầu
thực tế và nhu cầu lý thuyết của các chế độ ǎn đặc trưng cho các bệnh khác nhau
và đưa ra cách chế biến thực phẩm đặc biệt.
I. LịCH Sử PHáT TRIểN
CủA DINH DƯỡNG ĐIềU TRị:
Y học là một ngành khoa học ứng dụng có mục đích
cuối cùng là điều trị và phòng bệnh. Sự hiểu biết về nguyên nhân bệnh tật là cần
thiết đạt mục đích dó, vì thế nên sự tiến bộ của điều trị theo song song với sự
tiến bộ về sự hiểu biết nguyện nhân bệnh. Tuy nhiên không phải y học luôn luôn
biết được nguyên nhân gây bệnh, mặc dù không biết nguyên nhân nhưng điều trị
cũng đưa lại kết quả tốt. Đó là nhờ kinh nghiệm của nhân dân tích lũy mấy
nghìn nǎm trong sự đấu tranh với thiên nhiên và bệnh tật. Điều trị trước hết là
một nghệ thuật có trước khi y học trở thành một ngành khoa học. Trước khi biết
bệnh con người đã biết chữa bệnh, chủ yếu là chữa triệu chứng. Từ trước công
nguyên (460-377 trước CN) y học đã nói tới vai trò của ǎn uống và cho ǎn uống
phải là một phương tiện để chữa bệnh. Hypocrat một danh y thời cổ rất quan tâm
đến vấn đề điều trị bằng ǎn uống, ông viết: "Thức ǎn cho người bệnh phải
là phương tiện điều trị và các phương tiện điều trị của chúng ta phải là các
chất dinh dưỡng" . Theo ông, cấn phải biết chọn thức ǎn về chất cũng như về lượng sao cho phù hợp với
từng giai đoạn của bệnh. Ông khuyên rằng: "Phải chú ý xem nên cho người
bệnh ǎn nhiều hay ít, ǎn một lúc hay rải rác nhiều lần. Lại phải chú ý tới thời
tiết, địa phương, thói quen và tuổi tác của người bệnh" và "Việc hạn
chế hoặc cho ǎn thiếu chất_ bổ rất ngụy hiểm đối với người mắc bệnh mạn
tính". Thời kì Trung cổ, bác sĩ người La Mã Akhlepiat (128-56 trước CN)
quan niệm rằng Dinh dưỡng điều trị chiếm vị trí chu yếu, theo cách nhìn của ông
thì ông không công nhận biện pháp dược lí mà ông đưa ra một biện pháp bao gồm:
Chế độ ǎn và vật lý liệu pháp.
Từ thế kỷ 17 Lavoisier
(1743-1794) đã khởi xướng việc nghiên cứu tiêu hao nâng lượng và mở đầu thời kỳ
mới về nghiên cứu chuyển hóa trong dinh dưỡng nhất là chuyển hóa về mặt hóa
học, vấn đề ǎn điều trị ngày càng được các nhà y học chú ý Sidengai người Anh
có thể coi là người thừa kế những di chúc của Hypocrat đã chỉ ra: "Để nhằm
mục đích phòng bệnh cũng như điều trị trong nhiều bệnh chỉ cần cho ǎn không chế
độ ǎn thích hợp và sống một đời sống có tổ chức hợp lí " ông thấy cần thiết là phải hoàn chỉnh được chế
độ ǎn cho bệnh Gút và bệnh béo phì, ông biết là bệnh nhân rất thích thuốc, ông
cho rằng việc ǎn uống của bệnh nhân liên quan với thuốc có một ý nghĩa rất lớn,
ông yêu cầu thay hiệu thuốc bằng nhà bếp Hải Thượng Lãn Ông, một thầy thuốc nổi
tiếng của Việt Nam hồi thế kỷ 18 cũng rất chú ý đến vấn đề ǎn uống của người
bệnh. Ông đã dùng ốc bươu để trị chứng tiêu khát và dùng củ chuối hột ép nước
uống để điều trị bệnh đái đường. Ông viết: "Có thuốc mà không có ǎn uống
thì cũng đi đến chỗ chết. Đối với người nghèo không những ông đến thắm bệnh cho
thuốc không lấy tiền mà còn trợ cấp cả lương thực, thực phẩm cần thiết nửa. Vào
cuối thế kỷ 18 và đặc biệt nửa cuối thế kỷ 19 dinh dưỡng điều trị đã phát triển
hơn và có nhiều triển vọng, sự phát minh ra vitamin cùng với sự phác thảo ra những
trấn đề về các chất khoáng trong dinh dưỡng người bệnh...
Ngày nay với những
tiến bộ về nghiên cứu dinh dưõng ở lĩnh vực tế bào đã có nhiều công trình nghiên
cứu về sự lựa chọn các chất dinh dường ở phạm vi toàn cơ thể (ǎn thừa, ǎn thiếu, ǎn
đói, nhịn ǎn, sinh đẻ và tiết sữa, bệnh tật và cǎng thẳng...) các kết quả
nghiên cứu gần đây đã xác định vai trò của các chất chống oxy hóa đối với các
gốc tự do để đề phòng các bệnh tim mạch, một số thể ung thư và bệnh đái tháo
đường.
II. VAI TRò CủA ǍN UốNG.
1.
Ǎn uống đảm bảo sự phát triển của cơ thể.
Đặc biệt là trẻ em,
nếu trẻ được nuôi dưỡng tốt cơ thể trẻ sẽ phát triển nhanh. Ví dụ cân nặng
trung bình của trẻ sơ sinh đủ tháng là 2800- 3000 g, lúc trẻ được 12 tháng tuổi
thì cân nặng gấp 3 lần. Chiều cao lúc mới sinh trung bình là 48-50 cai, khi 12
tháng tuổi thì nhiều cao tǎng lên gấp rưỡi. Đối với phụ nữ có thai rất cần các
chất dinh dưỡng để phát triển thai.
2.
ǎn uống tốt nâng cao sức đề kháng chung của cơ thể chống lại bệnh tật nhất là
các bệnh nhiễm khuẩn và khi có dịch.
Người ta thấy súc vật
thí nghiệm được nuôi dưỡng tốt thì sản xuất kháng thể gấp 10 lần khi nuôi dưỡng
kém. Hai nhóm chuột được tiêm độc tố thương hàn, nhóm nuôi thoàn toàn bằng ngũ
cốc tỉ lệ chết gấp 4 lần so với nhóm ǎn bằng ngũ cốc cộng với casein.
Trên cơ thể người, đặc
biệt là ở trẻ em, người ta thấy những trẻ em bị suy dinh dưỡng thì nguy cơ
mắc các bệnh viêm đường hô hấp và bệnh ỉa chảy cao hơn rất nhiều so với. những
trẻ bình thường.
3.
ǎn uống ảnh hưởng tới tỉ lệ tử vong.
Theo UNICEF, tỉ lệ tử
vong trẻ dưới 1 tuổi của 130 nước trên thế giới (1984) (Tính theo tỉ lệ %0 ): 1960 1982
4.
Vai trò của ǎn uống với lao dộng và lối sống xã hội.
ǎn uống tốt không
những giữ gìn sức khỏe ở mức bình thường mà còn nâng cao được hiệu suất
lao động (trí óc và chân tay). Nếu khẩu phần ǎn giảm nhiều thì sức lao động
cũng giảm theo.
Tình hình sản xuất và
tiêu thụ thức ǎn trong một số nước ảnh hưởng quyết định tới lối sống của nhân
dân nước đó.
5.
ǎn có vai trò tích cực trong phòng và điều trị bệnh.
Người ta đã biết chế
độ ǎn này hay chế độ ǎn khác có thể không chỉ làm tǎng sức chống đỡ của cơ thể
đối với những bệnh khác nhau mà còi có tác động ngược lại nghĩa là làm giảm sức
chống đỡ cửa cơ thể. Chuyển chế độ ǎn này sang chế độ ǎn khác gây ra sự xáo
trộn cơ thể trong đó có khả nǎng phản ứng của cơ thể. Về phương diện này chế độ
ǎn biểu hiện tác động của mình không chỉ tới toàn bộ cơ thể mà còn tới tất cả
các quá trình vận chuyển trong cơ thể đang ở tình trạng bệnh lý hay kích thích gây bệnh.
Nước ta đang ở trong thời kì kinh tế chuyển tiếp. Bên cạnh mô
hình bệnh tật của một nước kém phát triển trong đó suy dinh dưỡng và nhiễm
khuẩn là phổ biến đang xuất hiện sự gia tǎng nhiều loại bệnh hay gặp ở các nước phát triển. Các bệnh mạn tính không
lây là mô hình bệnh tật chính ở các nước có nền kinh tế phát triển. Tuy còn
đôi điều chưa sáng tỏ nhưng các ý kiến cho rằng dinh dưỡng có vai trò quan
trọng trong việc phòng cũng như góp phần điều trị các bệnh này. Béo phì là một
tình trạng sức khỏe có nguyên nhân dinh dưỡng (chiếm 60-80% các trường hợp).
Vào cơ thể các chất protein, lipit, gluxit đều có thể chuyển thành chất béo dự
trữ. Nhiều nghiên cứu cho thấy hàm lượng cholesterol trong máu và huyết áp tǎng
lên theo mức độ béo, khi cân nặng giảm sẽ kéo theo giảm huyết áp và
cholesterol. Thực hiện một chế độ ǎn uống hợp và hoạt động thể lực đúng mức để
duy trì cân nặng ổn định ở người trưởng thành là nguyên tắc cần thiết để tránh
béo phì. Hiện nay, hầu như mọi người đều thừa nhận rằng chế độ ǎn uống là một
nhân tố quan trọng trong phòng ngừa và xử trí một số bệnh tim mạch, trước hết là
bệnh tǎng huyết áp và bệnh mạch vành. Một chế độ ǎn hạn chế muối, giảm nǎng
lượng và rượu có thể đủ để làm giảm huyết áp ở phần lớn đối tượng có tǎng huyết áp nhẹ . ở những người tǎng huyết áp nặng chế độ ǎn đó
cũng làm giảm bớt liều lượng các thuốc giảm huyết áp cần thiết.
Mối liên quan giữa
bệnh mạch vành với số lượng cholesterol toàn phần trong máu đã được thừa nhận
rộng rãi. Người ta thấy thành phần chính trong chế độ ǎn có ảnh hưởng đến hàm
lượng cholesterol huyết thanh là các axit béo no. Axit béo no có nhiều trong
chất béo động vật. Do đó một chế độ ǎn giảm chất béo động vật, tǎng dầu thực.
vật, bớt ǎn thịt, tǎng ǎn cá là có lợi cho người có rối loạn. chuyển hóa
cholesterol. Chế độ ǎn nhiều rau và trái cây có tác dụng bảo vệ cơ thể đối với
bệnh mạch vành tuy cơ chế còn chưa rõ ràng
Có thể đó là do tác dụng của chất xơ có nhiều
trong rau quả, cũng có thể một chế độ ǎn thực vật sẽ làm giảm huyết áp, một
nhân tố nguy cơ của các bệnh mạch vành.
Những nghiên cứu gần
đây cho thấy chế độ ǎn ít xơ và nhiều chất béo đặc biệt là chất béo bão hòa làm
tǎng nguy cơ ưng thư đại tràng. Tác dụng của chất xơ có thể là do chúng chống
táo bón pha loãng các chất có thể gây ung thư trong thực phẩm và giảm thời gian
tiếp xúc của niêm mạc đường tiêu hóa với các chất này. Người ta còn thấy vai
trò của chế độ ǎn trong bệnh đái đường, chế độ ǎn thực vật, nhiều rau có liên
quan đến hạ tháp tỉ lệ mắc đái đường thể không phụ thuộc vào Insulin.
Không thể phủ nhận
được vai trò của ǎn uống đối với các bệnh dinh dưỡng như suy dinh dưỡng protein
nǎng lượng, thiếu Vitamin A và bệnh khô mắt, bướu cổ do thiếu iốt, thiếu máu do
thiếu sắt... .
6.
ǎn điều trị còn có vai trò trong phục hồi có thể.
Trong trường hợp bị
thương phần mềm, gãy xương, cơ thể suy nhược sau sốt rét, sau. mổ, chế độ ǎn
hợp lí sễ giúp cho vết thương chóng lành và phục hồi cơ thể (đặc biệt là
protein và vitamin C). Một số trường hợp, bệnh cấp tính qua đi rất nhanh, nếu
bệnh nhân coi mình đã khỏe và không có chế độ ǎn thích hợp thì bệnh có thể
chuyển sang mạn tính.
III .CƠ Sở CủA DINH
DƯỡNG ĐIềU TRị HọC.
Cơ sở của dinh dưỡng điều trị họe là việc nghiên
cứu tình trạng và quá trình trao đổi chất của người bệnh dựa vào đặc tính từng
thời kỳ bệnh, kể cả mức độ nhiễm trùng, mức độ trầm trọng vô sự thay đổi hình
thái các cơ quan và toàn bộ cơ thể ở bệnh này hay bệnh khác.
Nhiều công trình
nghiên cứu đã chứng minh là chất và lượng thức ǎn ǎn vào ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt tính của các nội tiết tố. Cho ǎn nhiều gluxit làm tǎng hoạt tính
Adrenalin, nhiều protein làm tǎng hoạt tính của Tyroxin. Hoạt tính của
adrenalin còn phụ thuộc vào lượng vitamin C ở thường thận.
Người bị bệnh tǎng
toan thường bị ợ chua, đau ở vùng thượng vị có cảm giác co thắt ở ngực. Đa số
bệnh nhãn này dễ bị kích thích. Diễn biến đường huyết của người bị bệnh tǎng
toan giao động rất lớn. Khi lượng đường ở máu tǎng !ǎn thì sự tiết dịch của dạ dày giảm
đi, khi lượng đường huyết giảm đi thì sự tiết dịch của đa dày tǎng lên. Những
dao động đột ngột của đường huyết gây ra những đao động mạnh về tiết dịch dạ
dảy. Nếu cho người bệnh ǎn giảm gluxit để giảm sự táng đường huyết và cho ǎn
nhiều bữa gần nhau để đường huyết khỏi giảm xuống nhanh thì các triệu chứng
tǎng toan cũng sẽ bị mất đi.
Đại đa số người bệnh
bị tǎng toan là những .người thuộc loại thần kinh yếu. Khi ǎn hạn chế gluxit và
ǎn rải ra nhiều bữa không những làm mất triệu chứng tǎng toan mà còn giúp người
bệnh trở nên bình tĩnh và cân bằng hơn. Như vậy là trong một số- trường hợp
dịch thể trở thành yếu tố điều hòa, hệ thần kinh trung ương trở thành bị điều
hòa và do đó ǎn uống có thể ảnh hưởng đến cơ chế điều hòa của hệ thần kinh thực
vật.. Trong các bệnh tiêu hóa ǎn uống hợp lí là biện pháp điều trị chủ yếu vì
đẩy là nơi chuẩn bị và sử dụng thức ǎn ǎn vào.
IV. NGUYÊN TắC Và Tổ
CHứC CủA ǍN ĐIềU TRị. ,
Khi thực hiện chế độ
ǎn điều trị có thể sử dụng những nguyên tắc khác nhau tùy đặc tính của từng
bệnh, tình trạng bệnh và các đặc tính cá biệt khác.
Trong dinh dưỡng điều
trị người ta sử dụng rộng rãi các nguyên tắc hạn chế về số lượng và chất lượng.
Sự giới hạn về số lượng tùy thuộc giới hạn chất lỏng đưa vào như các bệnh thuộc
hệ tim mạch, vữa xơ động mạch, cao huyết áp. Trong một số bệnh đòi hỏi giới hạn
cả số lượng và chất lượng. Do đó khi xây dựng thực ềơn cho bệnh nhân cần chú ý
các nguyên tắc sau đây:
1 Khi đưa ra các chế
độ ǎn khác nhau phải đảm bảo sự cần đối, sự đấy đủ và sự toàn diện của nó, sao
cho phù hợp: với đặc tính biết trước của bệnh, chú trọng những bệnh đặc biệt .
2. Xác định được thời
hạn hạn chế của. việ.c sử dụng các chế độ ǎn không cân đối, khổng toàn diện và
không đầy đủ ở những ảnh khác nhau.
3. Quy định những
nguyên tắc ǎn uống ở những bệnh nhân tiến hành liệu pháp đặc biệt (liệu pháp sinh
hóa, liệu pháp điếu trị ).
4. Đề ra các nguyên
tấc phối hợp các yếu tố dinh dưỡng, điều trị với việc sử dụng kháng sinh và các
phương tiện khác của liệu pháp thuốc.
5. Qui định chế độ ǎn
phải phù hợp với hoạt động của bệnh nhãn, chú ý tới việc đề phòng sự hạn chế
hoạt động sau này do ảnh hưởng của ǎn uống gây ra.
Khi xây dựng từng thực
đen cụ thể, vấn đề quan trọng là việc lựa chọn các thực phẩm, các thực phẩm sử
dụng luôn tuân thủ theo nguyên tắc tác động cơ học và hóa học. Để tránh các tác
động cơ học khi chế biến thức ǎn cần chú ý:
- Hạn chế hoặc loại
trừ các thức ǎn thô, các thực phẩm khó tiêu nhiều xenluloza như: bánh mì đen,
củ cải; bắp cải, cây họ đậu
- Xử lí các thực phẩm
bằng cách nghiền nhỏ, chà xát, nhào trộn và quấy đảo để đảm bảo sự tiêu hóa và
hấp thu thức ǎn tốt nhất.
- Sử dụng những phương
pháp nấu đặc biệt nhằm làm giảm chất xơ, hòa tan propectin và làm mềm thực
phẩm. Cách chế biến tốt nhất là phương pháp hấp, có thể sử dụng phương pháp
nướng; nhưng nên hạn chế phương pháp rán.
Để loại trừ các tác
động hóa học khi chế biến thực phẩm nên loại trừ các thực phẩm giàu chất chiết
xuất, hạn chế biến món án gầy kích thích tiết dịch vị của dạ dày và ruột. Trong
khẩu phần ǎn nên loại trừ nước dùng đặc, súp cà chua, nước chấm đặc, nước sốt,
gia vị, dưa chuột muối... Phương pháp nấu là tất nhất.
V. NHU CầU DINH DƯỡNG CủA NGườI BệNH.
1.
Nguyên tắc phải đảm bảo
a) Cung cấp đầy đủ
nǎng lượng cần thiết.
b) Đủ các chất dinh
dưỡng.
c) Đủ nước và điện
giải ǎn uống tốt giúp cho bệnh .nhân tránh được sự phá hủy về thể chất và phục hồi những dự trữ đã mất.
2.
Nhu cầu cụ thể:
- Nhu cầu về nǎng lượng:
Bệnh nhân cần số lượng
Calo bàng số Calo của chuyển hóa cơ bản: 1250-1500Kcal, cộng thêm những nhu cầu
sau đây do bệnh tật đòi hỏi
- 20% nếu bệnh nhân
vật vã nhiều.
- 18% nếu sốt cao lên
10C
- 10% nếu tổ chức tế
bào bị hủy hoại.
Tổng nhu cầu nǎng
lượng dao động từ 1800- 2200kcal. tương đương với lao độ ng nhẹ .
b) Nhu cầu về protein:
- 10-15% nǎng lượng
khẩu phần tức là 1-1,5g/kg/24giờ (Tốt nhất là 12 +1%). Tỉ lệ protein động vật
trên protein tổng số là 50%.
ở người bình thường đã rất cần protein, người
bệnh lại cần thiết hơn. Trong bỏng, nhiễm trùng, xuất huyết cơ thể mất đi một
lượng protein khá lớn do dịch hay tế bào cơ thể bị hủy hoại. Do vậy protein
phải lớn hơn 1g/kg/24h. Nhưng sự cung cấp protein cho bệnh nhân tùy từng giai
đoạn củabệnh và tùy từng bệnh. Ví dụ:
- Giai đoạn đầu: Cơ thể giáng hóa nhiều protein, cân bằng Ni tơ âm
tính, protein chỉ cung cấp: 0,25- 0,5g/kg.
- Giai đoạn bệnh đã
đỡ: lg/kg/24h. Dần dần tǎng lên 1,2-1,4g/kg/24h.
- Giai đoạn hồi phục:
1,5-2g/kg/24h. Trẻ em có thể lên tới 3-4g/kg/24h.
- Trong một số bệnh có
rối loạn chuyển hóa (viêm thận có urê máu cao) thì chỉ cần 0,3g/kg, nhưng chỉ
dùng trong thời gian ngắn (tối đa là 10 ngày).
Protein động vật có
giá trì sinh học cao hơn nên tỉ lệ protein động vật phải là 30-50% tổng số
protein.
c) Nhu cầu về lipit:
Cao do lipit cung cấp
nên khoảng từ 20- 30% trong tổng số Calo. Khi tính toán nhu cầu về lipit cần
phải chú ý đến lipit thực vật vì nó cung cấp axit béo không no và vitamin E.
d) Nhu cầu gluxit:
Lượng gluxit trong
khẩu phần nên cân đối với protein và lipit theo tỉ lệ:
P:L:G = 1:0,7:5 . Tỉ lệ cân đối này giúp cơ thể hấp thu được dễ
dàng các chất dinh dưỡng. Khi đưa gluxit chú ý thêm một lượng vitamin B1. Nên
có một tỉ lệ cân đối giữa thành phần của gluxit với nhau. Lượng tinh bột khoảng
75%, lượng đường Saccaroza khoảng 10-15%. Chú ý hàm lượng các chất xơ (pectin,
xenluloza ) vì pectin ức chế các hoạt động gây thối ở ruột và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các vi khuẩn có
ích, xenluloza ngoài chức nǎng kích thích nhu động ruột còn góp phần bài tiết
cholesterol ra khỏi cơ thể, người ta thấy rằng nếu lượng Xenluloza < 1,5% sẽ
gây táo bón, nhưng nếu tǎng lên trên 4,5% thì lại gây ỉa chảy. Do vậy lượng
peetin nên là 3% và Xenluloza nên là 2%.
e) Nhu cầu vitamin:
Tốt nhất vẫn là các
vitamin có trong thức ǎn, có thể dùng vitamin tổng hợp như vitamin B1, B2, PP,
C, A, D, K. Trường hợp bệnh nặng thì vitamin B1 và Vitamin C là cần thiết nhất.
g) Nhu cầu nước và
muối khoáng:
Trước hết phải cung
cấp đủ cho bệnh nhân lượng nước và muối khoáng cần thiết. Đặc biệt là trẻ ỉa
chảy, nôn, sốt cao. Muốn biết đủ hay thiếu phải làm điện giải đồ và có kế hoạch
bồi phụ cho bệnh nhân. Tóm lại khẩu phần ǎn cho bệnh nhân nên cần:
P:L:G =13:22:65 (%
nǎng lượng)
= 1:0.7:5 (% nǎng
lượng)
3.
Chỉ số giới hạn
Nhu cầu dinh dưỡng cho
bệnh nhân phải ở trong giới hạn sau:
- Nǎng lượng do
piotein cung cấp không tháp dưới 10% và không cao 20% tổng số nǎng lượng của
khẩu phần. Tỉ số protein động vật không thấp dưới 25% của tổng số protein.
- Calo do lipit không
cao quá 35% tổng số Calo của khẩu phần. Để tránh nhiễm toan do protein, thì số
lượng gluxit tốt nhất phải hơn 4 lần protein, không được thấp hơn 2 lần
- Để tránh nhiễm toan
do lipit, thì số lượng gluxit ít nhất phải là 2 lần số lượng lipit.
Nhu cầu dinh dưỡng cho một người nặng 50 kg
Loại chế độ
ǎn
|
Protein (g)
|
Lipit
(g)
|
Gluxit(g)
|
Calo
|
Ǎn rất nhẹ
|
40 (0.8g/kg)
|
28
|
200
|
1212
|
ǎn nhẹ
|
50 (1g/kg)
|
35
|
250
|
1515
|
ǎn bình
thường
|
60 (1.2g/kg)
70 (1.4g/kg)
|
42
49
|
300
350
|
1818
2121
|
ǎn bồi dưỡng
|
80 (1.6g/kg)
90 (1.8g/kg)
100 (2g/kg)
|
56
63
70
|
400
450
500
|
2424
2727
3030
|
Bữa ǎn phải chia cho
hợp lí, ít nhất là 3 bữa. Bữa sáng và tối nên ǎn nhẹ 20-30% nǎng lượng khẩu
phần. Nếu ǎn 2 bữa thì hấp thu xấp xi 75% nǎng lượng khẩu phần, 3 bữa thì hấp
thu xấp xỉ 85% nǎng lượng khẩu phần.
4.
Các chế độ ǎn thường dùng trong bệnh viện.
a)Chế độ ǎn bình thường:
-1800-2000 Kcal.
Protein là 60-70g trong đó protein động vật chiếm 25-30% trong tổng số protein.
- Dùng cho bệnh nhân
mới vào viện không phải kiêng khem gì đặc biệt hoặc bệnh nhân trong giai đoạn
ổn định của bệnh. Nhu cầu dinh dưỡng gần giống người thuộc loại lao động nhẹ .
b)
Chế độ ǎn bồi dưỡng:
- 2600-3000Kcal,
protein 70-100g (protein động vật chiếm 30-50%).
- Dùng cho bệnh nhân
chuẩn bị mổ và giai đoạn hồi phục của bệnh.
c) Chế độ ǎn mềm:
- 1250-1800 Kcal,
protein 40-75g (protein động vật là 50-70%).
- Dạng chế biến: Phở,
cháo, miến.
- Dạng chế biến: sữa,
cháo. Có thể dùng sữa đậu nành thay cho sữa bò khi thiếu hoặc hỗn hợp sữa
đậu nành cộng 10% sữa bò.
- Dùng cho bệnh nhân
sốt nhiễm trùng nặng.
e)
Chế độ ǎn tǎng protein, giảm lipit, tǎng Calo:
- Dùng cho bệnh nhân
suy gan, viêm gan đã hồi phục, chế độ ǎn này cần nhiều protein động vật (thịt
nạc, trứng, sữa...).
- Dùng cho bệnh nhân
bị các bệnh tim mạch, thận.
i) Chế độ ǎn hạn chế gluxit (giảm bột, đường):
- Dùng cho bệnh nhân
đái tháo đường.
k) Chế độ ǎn hạn chế xơ và các chất lên men:
- Dùng cho bệnh nhân
viêm ruột cấp tính.
I) Chế độ ǎn hoàn toàn lỏng ( Chế độ ǎn bằng ống thông ):
- Dùng cho bệnh nhân
hôn mê, tổn thương đường tiêu hóa trên, uốn ván, viêm não.
Một số chế độ ǎn đặc
biệt:
U: Dùng trong hội
chứng urê máu cao
S: Dùng trong điều trị
trẻ suy dinh dưỡng thể Kwashiorkor.
SK: Sữa chua điều trị
trong bệnh nhiễm khuẩn.
CHế Độ KIÊNG ǍN CHỉ UốNG
Đặc điểm của chế độ ǎn
này là bệnh nhân không ǎn nên có tác dụng cho bộ máy tiêu hóa được nghỉ hoàn
toàn, hấp thu rất nhanh, có tác dụng chống độc và lợi tiểu
Cho bệnh nhân uống các
loại nước như: Nước lọc, trà loãng (pha thêm ít đường) hoặc nước suối.
Thể tích: 1,5 lít/24
giờ, cách 2 giờ cho bệnh nhân uống 1 lần. Có thể uống nước đường Saccaroza hoặc glucoza
60-100 g II,51ít, tức là 240-400 Kcalo. Chỉ định trong các trường hợp sau đây:
- Viêm dạ dày ruột cấp
tính.
- Urê máu cao.
- Suy tim.
- Xuất huyết đường
tiêu hóa.
- Sau phẫu thuật.
- Nôn mửa, nhất là do
nhiễm độc thai nghén.
Nhiễm khuẩn nặng bất
kì nguyên nhân nào.
Vì chế độ này không đủ
nǎng lượng và các chất dinh dưỡng nên chỉ áp dụng cho bệnh nhân trong một vài
ngày.
CHế Độ SữA Và SữA PHốI HợP
1
Chế độ sữa.
1.
Các loại sữa hay dùng
|
Cách pha
|
Protein
|
Lipit
|
Gluxit
|
Calo
|
Sữa tươi
|
10% đường
5% đường
|
3.9
3.9
|
4.4
4.4
|
14.8
9.8
|
116
95
|
Sữa đặc
|
Pha 33%
|
3.4
|
3.1
|
18.2
|
117
|
Sữa bột
|
Pha 15% + 10 % đường
|
4.4
|
4.1
|
15.4
|
117
|
Trong 1 lít sữa có
1,6g NaCl
1..2.
Số lượng và cách dùng:
1,5 - 2 lít/24 giờ pha
với nước trà, nước cháo, nước luộc rau, ca cao, sữa sẽ rất dễ tiêu
1..3.
Chỉ định: Trong các trường hợp:
Các bệnh về thận như
viêm thận cấp tính. Nên dùng sữa đậu nành kết hợp với sữa bò để giảm bớt lượng
muối trong sữa hoặc có thể dùng các loại sữa ít muối.
- Bệnh nhân bị suy tim
nặng có kèm theo phù: Khi dùng nên rút bớt lượng sữa đi (nhằm giảm bớt muối) và
nước cho thêm đường vào để tǎng nǎng lượng.
- Bệnh loét dạ dày tá
tràng có tǎng HCL: Chế độ này có tác dụng cho dạ dày được nghỉ ngơi, trung hòa
bớt HCL, có thể dùng sữa đậu nành.
Trường hợp bị nhiễm
trùng nặng: dùng trong những ngày đầu, nếu lâu ngày phải dùng sữa phối hợp với
các thức ǎn khác.
1
4. Chống chỉ định:
Khi bệnh nhân dị ứng
sữa. Các bệnh về đường ruột như táo bón, ỉa chảy.
- Bệnh viêm túi mật,
sỏi mật: ở bệnh nhân này khi dùng chế độ sữa thì có trường hợp rất tốt,
nhưng cũng có trường hợp không tốt tùy từng bệnh nhân.
2. Sữa phối hợp:
Đó là kết hợp sữa với một hoặc vài loại thực phẩm
khác, sự kết hợp này sẽ tốt hơn khi dùng đơn thuần sữa. Nó gồm các loại:
2.1.
Chế độ sữa và bột: Kết hợp sữa với các loại bột như bột gạo, mì,
sắn, khoai. Nhưng chế độ này cũng không được tốt lắm vì dễ gây táo bón, chỉ
dùng khi nhiễm khuẩn đã đỡ.
2.2.
Chế độ sữa, trứng, bột rau quả.
Dùng kết hợp sữa + trứng + bột + rau + đậu đỗ và các loại quả.
Là chế độ phối hợp
tất, có đủ thành phần hơn và dễ tiêu hơn. Nhất là dùng sữa đậu nành vì protein
cua sữa đậu nành là globulin (sữa bò là casein).
CHế Độ ǍN RạN CHế MUốI
Bình thường trong chế
độ ǎn hàng ngày có l0-15g muối NaCl gồm: 40% muối dùng để nấu nướng.
- 40% muối dùng để chế
biến các sản phẩm: giò, chả, nước mắm, tương, cà...
- 20% muối có sẵn
trong các thức ǎn thiên nhiên như sữa, trứng, nội tạng (óc thận, gan), cá, cua bể...
Hàm
lượng Na có trong một số thực phẩm (tính theo mg %):
Cải
xoong
|
98.7
|
Chuối
|
54.2
|
Nước
mắm
|
10.000
|
Rau
giền
|
70.5
|
Dứa
|
26.7
|
trứng
|
146.9
|
Su
hào
|
5.6
|
Mận
|
9.6
|
Cá
biển
|
100
|
Bí
đỏ
|
65.3
|
Cam
|
4.4
|
Đường
|
79.4
|
Bắp
cải
|
48.2
|
Dưa
hấu
|
8.2
|
Sữa
bò
|
45.3
|
Đậu
cô ve
|
21.5
|
Chanh
|
3.0
|
Khoai
lang
|
55.6
|
Giá
đỗ
|
10.0
|
Bánh
mì
|
390-670
|
Khoai
tây
|
17.1
|
Rau
muống
|
18.0
|
Gạo
|
158.0
|
Bột
mì
|
2.5
|
Mồng
tơi
|
5.0
|
Cà
chua
|
3.0
|
Dưa
cải
|
1700
|
Sữa
mẹ
|
18.5
|
Thịt
bò
|
77.9
|
Thịt
lợn sấn
|
35.6
|
Gan
|
78.6
|
Cá
tươi
|
39.3
|
a.
Chế độ ǎn hạn chế muối Nacl tương đối
- Nghĩa là trong khẩu phần ǎn còn Nacl 1,25- 2,5g (hay Na =
0,5-1,0g).
- Thực hiện chế độ ǎn cần phải:
+ Cấm nấu các thức ǎn bằng muối ( kể cả nước
mắm).
+ Không được dùng cà muối, cá muối, thịt muối...
+ Được phép dùng: Các thức ǎn có rất ít muối như
thịt, cá nước ngọt, gạo,
khoai, rau quả tươi và các thức ǎn bản chất có khá nhiều muối
như: trứng, sữa, của nội tạng...
b) Chế độ ǎn hạn chế muối Nacl tuyệt đối:
Đây là chế độ ǎn hạn chế Nacl chặt chẽ nghĩa là chỉ có Nacl
0,5-1g (hay Na = 0,195-0,395g ).
- Cấm dùng các thức ǎn như chế độ ǎn trên và cấm cả thức ǎn
thiên nhiên có sẵn muối như: sữa, trứng, cua.... Chế. độ ǎn này còn có tên là
chế độ Kempner gồm: Cơm, quả, đường không có thịt, cá, sữa bò. .
c) Chỉ định:
Trong suy tim: hạn chế muối, nước, Cao, protein. Nếu suy tim có
cơn đột biến thì hạn chế muối tuyệt đối. Nếu suy tim giai đoạn có khả nǎng hồi
phục (bù trừ) và khi cơ nǎng thận tốt thì hạn chế muối tương đối.
- Trong huyết áp cao: phải hạn chế tuyệt đối nếu có cơn kịch
phát, hạn chế tương đối nếu bệnh nhân vẫn chịu được huyết áp mà không có biến
chứng nặng. Chú ý nếu huyết áp cao không rõ nguyên nhân và không nhiều biến
chứng tim thận thì nhiều khi phải hạn chế tuyệt đối mới có kết quả.
- Trong bệnh thận: hạn chế muối, nước, protein nếu urê máu cao.
Trong viêm thận cấp thì hạn chế tuyệt đối hay tương đối tùy thuộc vào bệnh nhân
phù nhiều hay ít. Trong viêm thận mãn thì thể phù phải hạn chế muối còn thộp
huyết áp cao và urê cao thì phối hợp hạn chế muối và hạn chế protein. Trong hội
chứng thận hư phải hạn chế muối kèm với tǎng protein.
- Trong xơ gan, kèm cổ chướng và phù thì phải hạn chế muối và
tǎng protein.
Đối với phụ nữ có thai 3-6 tuần lễ cuối nên ǎn nhạt để tránh cho
tử cung khỏi phù và làm cho co bóp được mạnh mẽ. Dùng trong các bệnh cần hạn chế
nước bởi vì nếu có muối lập tức cơ thểsẽ giữ nước lại.
d) Chống chỉ định: Hạn chế muối không cần thiết trong:
Bệnh béo phì: vì nó không làm cơ thể bớt mỡ đi được nếu không
hạn chế các thức ǎn khác.
- Hội chứng tầng urê máu do thiếu muối Nacl trong các trường hợp
ỉa chảy nhiều và nôn mửa nhiều.
Viêm dạ dày, tǎng bài tiết HCL trong địch vị: vì nếu hạn chế
muối không làm giảm bài tiết HCL được.
- Bệnh tim, thận dùng thuốc lợi tiểu bằng thuốc có thủy ngán, cơ
thể mất nhiều muối vì đái nhiều và có thể gây ra urê máu tǎng.
CHế Độ ǍN TǍNG Và GIảM PROTEIN
I. GIảM PROTEIN
Bình thường chế độ ǎn có 1g protein cho lkg thể trọng. Chế độ ǎn
giảm protein nghĩa là dưới 1g cho lkg thể trọng.
1. Phân loại.
- Giảm ít: 0,8-0,9g/kg tức là 40-50g/50kg. Thức ǎn gồm: Trứng+ sữa+
ngũ cốc, rau quả. Không dùng thịt, cá.
Giảm trung bình: 0,6-0,8g/kg tức là 30-40g/50kg. Thức ǎn gồm:
Ngũ cốc, khoai, rau quả (còn gọi là chế độ án chay), nếu có thịt, cá, trứng thì
rất ít.
- Giảm nhiều: 0,4- 0,5g/kg tức là 20-25g/50kg. Chế độ này chỉ dùng
được trong vài tuần vì nó dưới mức tối thiểu của lý thuyết ni tơ (Mức tối thiểu
ni tơ 4-5g/24h tức là 25-30g protein). Thức ǎn gồm: cơm, quả, đường (Chế độ ǎn
của Kempner )
Hoặc bỏ hẳn protein: Chế độ ǎn Borat-bull chỉ có dầu hoặc bơ,
đường. (thí dụ: dầu long, đường 200g - Dùng đường saccaroza hoặc glucoza).
2. Chỉ định.
a) Chỉ định khi cơ thể không bài tiết được các chất đào thải của
sự chuyển hóa protein như:
Viêm thận cấp: khi urê máu cao, vô niệu có thể dùng chế độ
<l0g protein/ngày hoặc 0g protein/ngày.
Viêm thận mạn: Có urê huyết cao dùng chế độ ǎn giảm nhiều hoặc
trung bình tùy theo số urê bài tiết trong nước tiểu/ 24 giờ nhiều hay ít. Số protein của chế độ ǎn = số urê niệu / 24 giờ x
3.
- Xơ cứng. động mạch, huyết áp cao: Bệnh này thường thận bài
tiết kém và urê máu cao nên hạn chế protein.
- Suy tim có tổn thương ở thận .
b) Chỉ định hạn chế protein khi protein trở thành chất độc vì nó
không chuyển hóa được tốt hoặc không sử dụng được tốt.
Muốn protein được sử dụng tốt cần phải dùng phối hợp với các
thức ǎn khác mang lại nhiều cáo (lipit, gluxit). Số calo do protein không nên quá 20%. Như vậy một
chế độ ǎn có:
- 100g protein phải có > 2000 Kcalo
- 120g protein phải có > 2400 Kcalo
- 150g protein phải có > 3000 Kcalo
Như vậy chế độ ǎn nhiều protein phải có 2 điều kiện là nhiều
protein động vật và nhiều calo.
2. Chỉ định trong các bệnh.
a) Xơ gan: 1,5- 2 - 2,5g/kg. Phối hợp với giảm lipit, chế độ ǎn có
công hiệu nhất trong giai đoạn gan to. Nếu có cổ chướng và phù nhiều thì ǎn
tǎng protein phối hợp với giảm muối.
b) Viêm gan: giai đoạn đỡ và hồi phục hoặc thể mạn.
c) Hội chứng thận hư: Dùng khi thận bài tiết urê tốt. Nếu bệnh
nhân có phù thì phải kết hợp với chế độ ǎn giảm muối.
d) Thiếu máu: Nhất là trường hợp thiếu máu do thiếu huyết sắc
tố.
e) Bệnh nhiễm khuẩn mạn tính: lao, ung thư gan, suy dinh dưỡng.
g) Ngoại khoa: Trước và sau khi phẫu thuật, bỏng nặng, gầy
xương.
h) Sản khoa: Phụ nữ có thai- không mắc bệnh thận.
3.Chống chỉ định.
a) Suy thận có urê máu cao
b.
Hội chứng urê máu cao ở tất cả các loại.
CHế độ ǍN HạN CHế LIPIT
1.
Đặc điểm của Lipit.
- Sinh nǎng lượng gấp
đôi protein hoặc gluxit:
1g lipit sinh ra 9
Kcal
1g protein sinh ra 4
Kcal
- Có khả nǎng dự trữ ở các tố chức của cơ thể khi chế độ ǎn thừa
lipit.
- Gây co túi mật để
tống mật ra ngoài, Gluxit không có vai trò này còn protein rất ít vai trò này.
2.
Chỉ định.
- Bệnh béo phì: Bệnh
béo phì có thể không do nguyên nhân ǎn quá nhiều nhưng việc điều trị không thể
không hạn chế số lượng của khẩu phần. Khẩu phần ǎn phải giảm calo bằng cách giảm
mỡ, đường. Do vậy có thể lượng calo sẽ giảm xuống dưới 1500kcalo/24h, vì thế
cho nên phải tǎng lượng protein và rau trong khẩu phần ǎn. .
- Bệnh của túi mật:
Viêm túi mật, sỏi mật do cholesterol đắng đọng.ǎn chất béo sẽ gây co bóp túi
mật. Bệnh nhân đau, do vậy nên ǎn nhiều gluxit vì gluxit không làm cho túi mật
co bóp. Tùy theo từng thực phẩm và cách chế biến khác nhau mà phản ứng của cơ
thể khác nhau, đối với thực phẩm rán, xào cơ thể phản ứng nhiều hơn. Sữa tươi,
dầu thực vật nếu dùng đơn thuần dễ chịu cho bệnh nhân hơn.
Nếu bệnh nhân bị tắc
mật trong túi mật vì túi mật giảm khả nǎng co bóp do vậy có thể dùng chất béo
làm túi mật co bóp tốt hơn: Buổi sáng cho bệnh nhân ǎn trứng, kem sữa hoặc uống
dầu thực vật có tác dụng tống mật ra khỏi túi mật.
- Bệnh xơ mỡ động
mạch: Là tình trạng hình thành một mảng lipit ở dưới nội mạc mạch máu Thành phần của nó gồm
cholesterol và những este của cholesterol và một ít photpholipit. Phần lớn mỡ
động vật (mỡ lợn, bò, cừu...) chứa nhiều axit béo bão hòa làm tǎng cholesterol
trong máu. Còn các dầu thực vật (dầu đỗ tương, ngô...) chứa nhiều a.xịt béo
không bão hòa làm hạ cholesterol trong máu. Cho nên trong bệnh này nên hạn chế
các loạt mỡ động vật.
CHế Độ ǍN BằNG ốNG THÔNG
1.
Chỉ định.
Cho bệnh nhân ǎn bằng
cách truyền thức ǎn bằng ống thông qua mũi trong các trường hợp: Mất trí, mắc
bệnh thần kinh, uốn ván, viêm màng não, liệt họng vì bạch hầu, suy nhược sau mổ
cắt dạ dày, sau phẫu thuật quan trọng, bỏng nặng, hôn mê, chán án (trong trường
hợp bệnh nhân chán ǎn khuyên bệnh nhân nhiều lần nên ǎn uống bình thường).
2.
Cách truyền
Dùng ống thông dài
khoảng 1m, đường kính của ống thông khoảng 1,2- 1,5mm.
Bôi glyxerin hoặc
vaselin rồi cho vào mũi bệnh nhân tới dạ dày. Muốn tránh cho bệnh nhân khỏi nôn
thì đồng thời cho bệnh nhân hút một ít nước bằng 1 ống nhỏ ngậm vào mồm. Cho
ống thông vào mũi rất từ từ-khi tới họng thì. bảo bệnh nhân nuốt đồng thời ấn
ống thông xuống.
3.
Cách cho ǎn.
Cho bệnh nhân ǎn nhỏ
giọt liên tục như tiêm truyền tĩnh mạch 60 giọt/1phút hoặc cho ǎn 3-4 lần/1
ngày. Hoặc có thể lấy bơm tiêm bơm dung dịch qua ống thông mỗi lần 300-400ml.
Ngày bơm 5-6 lần. Sau khi cho ǎn cần bơn lột ít nước qua ống thông để rửa khỏi
tắc ống.
- Cố định ống thông.
4.
Thời gian và số lượng dùng.
Cho ǎn trong 7-15
ngày, có thể ǎn lâu hơn nhưng phải thay ống thông 1-2 lần/1tháng.
- Số lượng tùy theo từng bệnh mà cho ǎn từ 500-2000
Kcal/ngày.
- Cho ǎn tǎng dần (bắt
đầu 500 Kcal và 30g protein, sau đó mỗi ngày cho ǎn thêm 250-500 cao cho đến
khi được 2000 Kcal).
5.
Tai biến.
Đau bụng, đầy hơi, la
lỏng nhất ỉa khi bắt đầu cho ǎn nhanh quá, chỉ cần bớt số lượng ǎn, thay hỗn
hợp thức ǎn hoặc thời gian cho ǎn. Hội chứng Dumping: thường xảy ra đối với
bệnh nhân cắt dạ dày.
Sau khi ǎn bị mệt,
nhức đầu, toát mồ hồi, run bắp cơ. Do thức án thoát khỏi dạ dày 'nhanh quá hoặc
dạ dày bị giãn hoặc thức ǎn đặc. Do vậy không nên dùng hỗn hợp có >
1kcal/1ml.
- Bệnh nhân nôn mửa
không chịu được ống thông.