Con người là một hệ
thống, một cỗ máy tiêu thụ nǎng lượng để hoạt động, cỗ máy này cũng bị hao mòn
trong quá trình sử dụng.
ǎn uống qua thức ǎn,
cung cấp nǎng lượng cho các hoạt động của cơ thể và tu bổ những hao mòn đảm bảo
cho các chức nǎng của cơ thể được hoạt động bình thường. Đối với người cao
tuổi, ǎn uống càng quan trọng vì qua nhiều nǎm hoạt động cỗ máy cũng đã có
nhiều đổi thay.
I. NHU CầU DINH DƯỡNG ở NGƯờI CAO TUổI
1.
Trước hết nói về nhu cầu nǎng lượng.
Người cao tuổi hoạt
động ít hơn, khối cơ (bắp thịt) của người cao tuổi cũng giảm đi khoảng 1/3 so
với tuổi trẻ. Với một người 70 tuổi, nhu cầu nǎng lượng giảm đi khoảng 30% so
với tuổi. Do đó người cao tuổi phải ǎn ít hơn lúc còn trẻ. Nếu thấy vẫn ǎn ngon
miệng mà ǎn quá thừa thì sẽ mắc bệnh béo trệ. Có thể tham khảo công thức Lorentz sau đây để
tính trọng lượng nên có:
Trong đó: - P là trọng
lượng nên có tính bằng kg
- h là chiều cao tính
bằng cm
Ví
dụ: Với nam cao 160 cm trọng lượng nên có là:
Với nữ cũng cao 160cm
trọng lượng nên có là:
Cũng có thể dùng một
công thức đơn giản hơn tính chung cho cả nam nữ.
P : 50 + 0,75 ( h – 150)
Với người cao 160cm
trọng lượng nên có:
P = 50 + 0,75 ( 160 - 150 ) = 57,5 kg. .
Đơn giản hơn nữa lấy
chiều cao tính bằng cm trừ đi 100 rồi lấy 9/10 của trọng lượng đó. Ví dụ một
người cao 160 cm. Trừ đi 100 còn 60 lấy 9/10 của 60 là 54 kg.
Vài cách tính nói trên
cho thấy khái niệm trọng lượng nên có không có ý nghĩa tuyệt đối mà chi có giá
trị hướng dẫn, tham khảo, nghĩa là một người cao 160 cm có trọng lượng lúc trẻ
khoảng 55 kg là tất. Và tất nhiên không nên vượt quá mức 60 kg (10/10). Nếu lên
đến 66 kg (11/10) là béo.
Gần đây tổ chức khuyên
dùng chỉ số khối cơ thể (Body mass index) để đánh giá tình trạng dinh dưỡng:
Cân nặng(kg)
Chỉ số BMI cao hơn giới hạn trên 25 là béo và thấp hơn
18,5 là gấy.
Ví dụ: Một người nặng
57,5 kg cao 1m60
Người đó dù là nam hay
nữ đều vào loại bình thường không gầy, không béo.
- Nếu người đó nặng 66
kg thì BMI sẽ bằng:
Thì nam hay nữ đều
thuộc loại béo.
Đối với người nhiều
tuổi, trọng lượng nên có tất nhiên phải thấp hơn trọng lượng đã tính, và trọng
lượng đó nên coi là trọng lượng tối đa cho phép.
Ví dụ: Một người cao
lm70. Từ nhiều nǎm vẫn điều chỉnh vấn đề ǎn uống và giữ cân ở mức nên có 63 kg
(70kg x 9/10). Nhưng đến lứa tuổi trên 70 mức đó quá cao vì khối cơ teo đi và
thay vào đó là khối mỡ, bụng to ra do đó cân nặng vẫn giữ nguyên cho nên cần
rút bớt xuống khoảng 60kg, bớt đi 3kg mỡ thừa. ở lứa tuổi trung niên mỗi bữa 3-4 bát cơm nay
chỉ ǎn mỗi bữa một bát cũng vẫn giữ được cân.
2.
Về nhu cầu chất ngọt (gluxit).
Tuổi càng cao càng
giảm mức chịu đựng đối với chất ngọt: 70% ở nhóm tuổi 60-74 và 85% ở lứa tuổi trên 75 bị giảm mức chịu đựng đối với
chất ngọt. Đây là tiền đề dễ bị mắc bệnh đái tháo đường. ởtrên 60 tuổi tỷ lệ người bị đái tháo đường
cao hơn 8-10 lần so với dân cư chung. Chúng ta đều biết khi ǎn nhiều đường,
uống nhiều nước ngọt, ǎn nhiều kẹo
bánh ngọt, đường hấp
thu vào máu rất nhanh tạo ra một đỉnh cao, một thời điểm đường huyết cao buộc
tụy tạng phải hoạt động đột xuất tiết ra insulin để điều chỉnh đường huyết. Nếu
sự kiện này diễn ra nhiều lần trong ngày và diễn ra liên tục trong thời gian
dài, đặc biệt ở người cao tuổi thì sẽ bắt tụy tạng hoạt động quá tải gây ra bệnh
đái đường. Cho nên đối với người cao tuổi phải hạn chế ǎn đường, hạn chế uống
nhiều nước ngọt và ǎn nhiều bánh kẹo. Chất ngọt là chất cung cấp nǎng lượng cho
cơ thể. Nên dùng chất ngọt (gluxit) từ nguồn chất bột: cơm, bánh mì... Vì các chất ngọt này được tiêu hóa, hấp thu,
dự trữ ở cơ thể và chỉ giải phóng ra từ từ đưa vào máu theo nhu cầu hoạt động
của cơ thể cho nên không làm tǎng đường huyết đột ngột lên đỉnh cao.
3.
Về chuyển hóa chất béo (lipit).
Cơ thể thừa chất ngọt (gluxit) sẽ chuyển thành mỡ
dự trữ. ở người cao tuổi hoạt động của men lipaza phân giải chất mỡ giảm
dần theo tuổi và cơ thể có xu hướng thừa mỡ trong máu, cholesterol trong máu
tǎng, dễ có rối loạn trong thành phần cấu tạo các nhóm mỡ.
Đó là tiền đề dẫn đến vừa xơ động mạch (VXĐM) rồi
ảnh hưởng đến cơ tim với các cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, phồng động
mạch vành, ảnh hưởng đến thiếu máu cục bộ ở não gây mất ngủ, rức đầu, ù tai, chóng mặt,
hay quên, giảm khả nǎng tư duy, tập trung tư tường. Nặng hơn có thể bị xuất
huyết não, liệt nửa người, hôn mê .
Cần bảo vệ hệ thần
kinh trung ương trong phòng và chữa VXĐM. Hạn chế cǎng thẳng, luyện tập thân
thể đều, sinh hoạt điều độ đảm bảo giấc ngủ. Hạn chế cao trong khẩu phần ǎn,
giảm mỡ động vật, tǎng ǎn dầu thực vật, hạn chế muối, bớt đường, ǎn nhiều rau
quả.
4.
Về chuyển hóa protein.
ở người cao tuổi tiêu hóa hấp thu protein kém,
khả nǎng tổng hợp của cơ thể cũng giảm do đó dễ xảy ra trạng thái thiếu protein
cho nên cần chú ý đảm bảo chất protein cho người cao tuổi.
Nói tới protein thì
người ta nghĩ ngay đến thịt. Chúng ta đều biết tiêu hóa thịt thường đi đôi với
một quá trình phân giải tạo ra các chất có sunfua ở đại tràng và là những độc tố ảnh hưởng không
tốt đến sức khỏe. Mùi hôi nặng nề khi trung và đại tiện phản ảnh một phần hậu
quả của hiện tượng có nhiều chất chứa sunfua khi ǎn nhiều thịt. Đặc biệt nếu
lại bị táo bón, các chất độc này không được thải ra ngoài nhanh lại bị hấp thu
vào cơ thể gây ra một loại nhiễm độc trường diễn rất có hại cho sức khỏe. Cho
nên đối với người nhiều tuổi nên hạn chế ǎn thịt, nhất là thịt mỡ mà nên thay
vào ǎn cá vì cá có nhiều đạm quí, dễ tiêu, ít sinh khí sunfua hơn thịt lại có
nhiều axit béo không no rất cần đối với người có tuổi, có cholesterol cao. .
Người có tuổi nên ǎn
nhiều chất đạm nguồn thực vật vì ít tạo sunfua. Ngoài ra các thức ǎn nguồn gốc
thực vật còn có xơ trong thức ǎn có tác dụng giữ cholesterol trong ống tiêu hóa
và sau đó thải ra theo phân. Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy sợi xơ trong thức
ǎn làm hạ cholesterol tự do trong máu.
Tóm lại người cô tuổi
nên ǎn giảm thịt nhất là thịt mỡ, ǎn thêm nhiều bữa cá trong tuần và tǎng cường
sử dụng đậu phụ, sữa đậu nành, sữa chua từ đậu nành, các loại đậu đỗ và lạc.
Các nguồn đạm này ít sinh sunfua, có nhiều chất xơ giúp thải ra theo phân chất
cholesterol.
5.
Chuyển hóa nước, vitamin và chất khoáng.
Người có tuổi thường
giảm nhạy cảm đối với cảm giác khát nước, vì thế cần có ý thức đề phòng thiếu
nước cho người có tuổi, có chế độ cho người có tuổi uống nước vào những bữa
nhất định, ví dụ uống trà buổi sáng, uống nước vào buổi trưa, bớt uống nước vào
buổi tối. Trong mùa hè cần tǎng cường lần cho uống nước.
Đối với người có tuổi,
cần chú ý tới hoạt động của các gốc tự do trong cơ. Khái niệm về gốc tự do (FR) được đề xướng lần
đầu tiên nǎm 1954 do nhà khao học Hoa Kỳ D.Harman trong luận thuyết về cơ chế
tích tuổi (Free Radical Theory of Aging). Gốc tự do là những phân tử hoặc những
mảnh vỡ của phân tử có một điện tử lẻ đôi ở quĩ đạo vòng ngoài. Do sự có mặt của điện tử
này, các gốc tự do có một thuộc tính đặc biệt quan trọng là có khả nǎng oxy hóa
rất cao. Nếu vì một lý do nào đó, thường là do đời sống quá cǎng thắng, gặp quá
nhiều stress thì số lượng các gốc tự do tǎng cao bất thường vượt khỏi sự khống
chế bình thường của hàng rào bảo vệ của các chất AO, thống oxy hóa (antioxydant)
thì chúng sẽ khởi động những phản ứng dây chuyền oxy hóa các chất nền
(substratum) đáng chú ý là các lipit, thành phần cấu tạo của tất cả các màng tế
bào. Các gốc tự do và sản phẩm hoạt động của chúng, các dẫn chất peroxyt hóa
sau khi gây tổn thương màng tế bào sẽ dẫn đến nhiều tổn thương khác như biến
đồi cấu trúc các protẹịn, ức chế hoạt động các men, biến đổi cấu trúc và thuộc
tính ác nội tiết tố.
Tổn thương do các gốc
tự do gậy ra là cơ sở bệnh sinh học của những trạng thái bệnh thường gặp ở những người có tuổi như VXĐM, bệnh đái tháo
đường, bệnh nha chu, bệnh ung thư...
Theo D.Harman, tích
tuổi - già hóa - là hậu quả tổng hợp của tất cả các tổn thương xuất hiện và
phát triển trong các tế bào tổ chức cơ quan, hệ thống của cơ thể do các gốc tự
do gây ra.
II CáC BIệN PHáP CầN
THIếT Để TǍNG TUổI THọ .
Đúng như nhà khoa học
Pháp đã nói "Nghệ thuật tǎng tuổi thọ đó là nghệ thuật tránh làm giảm tuổi thọ ". Cần giảm sản sinh ra các gốc tự do FR và tǎng AO trong cơ thể. Cần tránh làm giảm tuổi thọ bằng
cách:
1.
Có một tâm hồn thanh thản, phấn đấu để được luồn sống trong niềm
vui.
- Niềm vui kích thích
tǎng cường sức sống của cơ thể, giúp duy trì thǎng bằng của hệ thần kinh và là
một vũ khí cưỡng lại mọi cǎng thắng, mọi stress của cuộc sống hàng ngày. Người
ta chỉ đến sống trên trái đất chắc chắn có một lần, chưa biết bao giờ được trở
lại lần thứ hai, cuộc sống lại quá ngắn ngủi. Vậy tại sao lại dùng thời gian
quý báu của mình để đi gây cǎng thẳng với người khác mà không dùng nó vào bao
nhiêu công việc có ích mà con người đang rất thiếu thời gian để thực hiện: lao động, học tập,
sinh hoạt nghệ thuật, tình bạn, đời sống gia đình êm ấm...
Tuy nhiên phải công
nhận cuộc sống hiện tại rất cǎng thẳng có thể làm suy yếu cơ thể gây ra nhiều
bệnh. Cho nện phải tạo điều kiện cho thần kinh bớt cǎng thẳng, lấy lại được sự
bình thản, thoải mái, dành thời gian thư giãn hàng ngày. Thư giãn thực hiện dựa
trên cơ sở giải quyết mối quan hệ giữa hoạt động thần kinh và trương lực cơ
bấp,. bằng cách tập trung ý nghĩ vào cách' giãn mềm cơ bắp nhờ đó mà làm dịu
cǎng thắng thần kinh, kết hợp với thư giãn tập thở sâu thở tối đa, thở nhịp
nhàng.
2. ǎn uống hợp lý
- Tǎng cường các chất AO chống oxy hóa để chóng lại các gốc tự do (FR).
Các chất AO có nhiều ở rau quả bao gồm:
Vitamin E, vitamin C,
beta-caroten, vitamin P, vitamin nhóm B.
- Các chất màu trong
thảo mộc, trong rau, quả.
- Tanin của trà.
- Các chất khoáng K,
Mg, Zn, Cu, Se, Fe.
- Một số axit hữu cơ.
Uống nước chè, chè
xanh, hoa hòe, ǎn nhiều rau, đặc biệt là rau lá xanh (rau muống, rau ngót, rau
giền, rau đay, rau mùng tơi) ǎn nhiều gia vị (hành, hẹ, húng, diếp cá, lá lốt,
rau thơm, rau mùi, rau rǎm...), ǎn củ gia vị (tỏi, gừng, riềng, nghệ) và ǎn
nhiều quả chín sẽ cung cấp cho cơ thể nhiều vitamin và các chất khoáng làm cho
đội ngũ bảo vệ AO trở thành hùng hậu để chống lại các phần tử gây rối là các gốc
tự do (FR).
3.
Nǎng vận động.
Ngoài yếu tố ǎn, còn
một cách chống oxy hóa cơ thể rất có hiệu quả là vận động. Từ xưa Aristot đã
nhận xét: "Không có gì làm suy yếu và phá hủy cơ thể con người bằng
việc không vận động kéo dài".
Vận động chân tay
không phải chỉ cấn thiết cho cơ bắp, xương, khớp mà còn tác dụng đến toàn cơ
thể. Cơ thể được rèn luyện đều đặn sẽ hoạt động hài hòa, cho ta cảm giác đễ
chịu, vui phấn khởi, yêu đởi, trí óc sáng suất và lao động có nǎng suất.
Cần dành thì giờ tập
luyện đều đặn hàng ngàn theo một chế độ và phương pháp tự chọn phù hợp với sức
khỏe và tuổi tác của từng người, phương pháp tập luyện thích hợp nhất với người
cao tuổi là đi bộ và tập thở, thở sâu.
Tóm lại muốn chống lại
hoạt động phá hoại của các gốc tự do gây già hóa nhanh cần thực hiện 3 biện
pháp chính là:
- Chống lại sự phát
triển gốc tự do ở trong cơ thể bằng cách uống thanh thản, bớt cǎng thắng, sống
thân ái trong niềm vui với đồng nghiệp, bạn bè, gia đình.
- Có chế độ ǎn giàu chất bảo vệ AO để chống lại, và hạn chế hoạt động của các gốc
tự do (FR).
- Nǎng vận động để cơ
thể người cao tuổi được khỏe mạnh, vui vẻ và không bị trì trệ trầm cảm.
III. NHữNG LờI KHUYÊN
Cụ THể Về ǍN UốNG VớI NGƯờI CAO TUổI
- Người có tuổi cần ǎn bớt số
lượng.
Cơm là nguồn cung cấp
nhiệt lượng chủ yếu của nhân dân ta. Nếu còn trẻ ǎn bình thường mỗi bữa 3 bát
cơm. Khi lao động nặng ǎn tới 4,5 bát. Thì nay nên ǎn rút xuống 2 bát rồi 1
bát. Theo dõi cân để đi.êu chỉnh mức ǎn, người nhiều tuổi nên lấy mức tối
đa không được vượt quá 9/10 của chiều cao tính bằng cm trừ đi 100. Ví dụ người
cao 160cm không được vượt quá:
2.
Về mặt chất lượng bữa ǎn.
- Cần đảm bảo chất
đạm, chủ yếu bằng chất đạm nguồn thực vật: đậu phụ, sữa dậu nành, sữa chua,
tương, các loại đậu và cá. Giảm ǎn thịt nhất là thịt mỡ.
- ǎn dầu hoặc lạc, vừng, giảm ǎn mỡ.
- Hạn chế ǎn mặn, giảm
án đường, giảm nước giải khát ngọt, bánh kẹo ngọt.
- Tǎng cường ǎn nhiều
rau đặc biệt là rau lá xanh, ǎn nhiều rau gia vị, tuần nào cũng nên có món ǎn
sử dựng các loại củ gia vị: tỏi, gừng,. riềng, nghệ. Chú ý giá đỗ.
3.
Cách ǎn.
- Tránh ǎn quá no đặc
biệt khi có bệnh ở hệ tim mạch, cần chú ý những ngày lễ, tết thường ǎn quá mức bình
thường, và vui quá chén.
- Làm thức ǎn mềm và
chú ý tới món canh. Cần quan tâm đến tình hình rǎng miệng, sức nhài, nuốt của
người nhiều tuổi khi chế biến thức ǎn (già được bát canh) vì tuyến nước bọt và
hàm rǎng của người nhiều tuổi hoạt động kém, vấn đề nuốt thức ǎn có khó khǎn.
- Phải theo dõi và
kiểm tra vấn đề ǎn và uống của người nhiều tuổi.
Nhiều cụ ǎn rồi lại
nói là chưa ǎn. Một số cụ ǎn nhưng không thấy cảm giác no nên ǎn quá mức, ǎn
thừa. Một số cụ lại không thấy cảm giác khát nên cơ thể bị thiếu nước.
- Cần xây dựng một tập
tục mới bữa ǎn có thực đơn tức là có kế hoạch cho bữa ǎn chung và bữa ǎn của
người nhiều tuổi trong đó:
+ Có món salát chủ yếu để cung cấp rau nguồn
vìtamin, chất khoáng, chất xơ cho cơ thể. Trong món salát cô kèm theo dầu ǎn,
vừng lạc để chế biến ra các món nộm hoặc các món salát hỗn hợp nhiều loại rau,
củ, quả khác.
+ Có món chủ lực chủ yếu cung cấp chất đạm và chất
béo bao gồm thịt các loại cá và thủy sản, đậu phụ và đậu các loại. Các món ǎn
này có thể làm riêng từng loại như thịt kho, thít gà luộc, cá rán, trứng tráng,
đậu phụ kho, rán, hoặc hỗn hợp như giả ba ba có thị đậu phụ nhồi thịt, trứng
đúc thịt, hoặc chế biến sẵn để ǎn dần như tương, muối vừng, lạc. Không nên bày
vẽ ra quá nhiều món.
Khi có khách cũng chỉ
nên làm 2 món chủ lực này.
+ Có món ǎn cung cấp nǎng lượng chủ yếu là chất
bột, món chính là cơm. Cơm trắng hoặc cơm trộn ngô, trộn đậu xanh, đậu đen,
trộn khoai có vùng còn trộn cám. Cơm cám rất bổ, và rất ngon, rất béo. Ngoài
cơm có thể ǎn bánh mì (ở thành phố), ǎn ngô, mèn mén ở vùng đồng bào thiểu số chuyên trồng ngô hoặc
ǎn khoai, đặc biệt là khoai sọ chấm muối vừng rất phù hợp với người nhiều tuổi
+ Có món canh cung cấp nước và các chất dinh dưỡng
bổ sung cho cơ thể. Từ nước rau, canh suông, canh rau muống, tương gừng, đến
canh cá, canh giò, canh thịt. Những món canh chua rất được ưa thích trong mùa
hè và những món canh dưa với lạc, với cá, với thịt rất được ưa thích trong mùa
đông.
+ Có đồ uống, nhớ ǎn cần đi đôi với uống, uống
trước, trong và sau bữa ǎn đối với người nhiều tuổi, tránh dùng rượu. Chỉ cần
nước trắng, nước chè và các món canh trong bữa ǎn.
- Chú ý đám bảo vệ
sinh trong quá trình nấu nướng. Họa từ mồm ra và bệnh từ mồm vào. Thức ǎn không
được trở thành nguồn gây bệnh.
4.
Sử dụng hợp lý một số thực phẩm dùng cho người cao tuổi.
- Gạo: tốt nhất là ǎn
gạo lức, gạo toàn phận nhưng nên đã bóc cám riêng ra cho gạo mềm dễ nhai. Khi
nấu trộn với cám đã bóc ra, cơm cám này ǎn với muối vừng rất béo và rất ngon.
Đây là cách ǎn thông minh của nhân dân vùng Giao Thủy Nam Hà.
Gạo lức la loại gạo
đặc biệt dành cho các cụ có điều kiện, có nhiều thời giờ, còn bình thường chỉ
cần chọn gạo dẻo, không mốc và không xát quá trắng.
- Khoai củ các loại:
người cao tuổi nên ǎn rút bớt cơm và thay vào đó nên ǎn nhiều loại khoai. Khoai
có khối lượng lớn gây cảm giác no nhưng cho ít nǎng lượng không gây béo mà lại
có nhiều chất xơ giúp chống táo bón, giúp thải cholesterol thừa và đề phòng ung
thư đại tràng.
- Đậu tương (đậu
nành): đậu các loại có giá trị dinh dưỡng rất cao, giàu chất đạm. Riêng đậu
tương còn có thêm nhiều axit béo không no rất quý, cần khuyến khích trồng ở mọi vùng và chế biến đậu tương ra nhiều loại
thức ǎn.
+ Làm tương: tương cà gia bản, tương không phải
chỉ là một loại nước chấm ngon (tương Bần), tương Cự Đà. Tương còn được coi như một món ǎn chế biến sẵn
ở nhiều vùng quê. Trong bữa ǎn, múc ra một bát tương to, mọi người
rưới tương án với cơm.
+ Đậu phụ, cháo.
+ Sữa đậu nành, sữa chua từ đậu nành: sử dụng
nhiều loại đậu, đậu xanh, đậu đỏ, đậu đen, đậu trắng vào chế biến món ǎn và
ngâm giá đỗ.
- Lạc, vừng: lạc, vừng
đều giàu chất đạm, chất béo, nhiều axit béo không no. Nên chế biến sẵn một ìọ
nhỏ vừng, lạc để ǎn dần bổ sung vào bữa ǎn trong vòng 1 tuần.
- Rau: bữa nào cũng
cần có món rau, đặc biệt là rau xanh cò chứa nhiều b-proten kể cả trong các bữa tiệc cũng không
nền chỉ nghĩ đến. thịt cá, giò, chả, mà quên rau.
- Quả chín: rất quý
nhất là với người nhiều tuổi. Nguồn cung cấp nhiều vitamin và nhất khoáng,
nhiều chất chống oxy hóa. Cần gây thành tập tục có quả tráng miệng sau bữa ǎn.
Rau quả giúp con người
tǎng sức khỏe, đẩy lùi bệnh tật.
"Hàng ngày quả
chí rau xanh
Cũng
như thày thuốc đứng canh bên mình! "
- Thịt, cá: mỗi tuần
lễ tối thiểu có 3 bữa cá, thịt tùy theo khả nǎng. Bình quân đầu người nhiều tuổi 1 kg/tháng.
- Trứng: là món ǎn có
giá trị dinh dưỡng cao nhưng không phải cứ ǎn nhiều trứng là tốt. Đối với người
khỏe mạnh mỗi tuần cũng không nên ǎn quá 6 quả vì ở trứng có nhiều cholesterol. Đối với người
nhiều tuổi vừa trải qua những bệnh làm cơ thể gầy sút nhiều nếu không có phản
chỉ định của thày thuốc, có thể ǎn 3 quả trứng một tuần.
Không nên cho những
người có triệu chứng của bệnh thiếu máu tim, rối loạn tuần hoàn não ǎn trứng.
Tốt nhất khi ǎn trứng nên kèm theo ǎn sữa vì trọng sữa có nhiều lexitin có thể
trung hòa tác dụng cửa cholesterol.
- Sữa: dân ta chưa có
tập tục dùng sữa. Nhưng vì sữa rất bổ nên cần có kế hoạch phát triển ngành nuôi
bò sữa, nuôi trâu sữa, nuôi dê lấy sữa và sản xuất sữa đậu nành. Đối với người
nhiều tuổi ǎn sữa rất bổ và dễ tiêu. Đặc biệt sữa chua vừa bổ vừa có tác dụng
điều hòa hoạt động của bộ máy tiêu hóa. Nếu có điều kiện mỗi ngày các cụ nên ǎn
một cốc sữa chua.
- Mật ong: mật ong có
rất nhiều tác dụng đối với cơ thể. Trong điều trị học mật ong được sử dụng có
kết quả tốt trong các bệnh viêm, loét dạ dày, tá tràng, các trạng thái suy yếu
gan, thần kinh. Nhưng người nhiều tuổi có đặc điểm giảm mức chịu đựng đối với
chất ngọt vì thế người nhiều tuổi không được ǎn quá 20g đường một ngày trong đó
có tính cá mật ong.
- Mắm: mỗi địa phương
Việt Nam đều có những loại mắm riêng được dân rất ưa thích. Đối với người nhiều
tuổi tuy mắm rất ngon nhưng không nên ǎn thường xuyên và mỗi lần ǎn cũng nên
dùng ít thối vì. lượng muối NaCl trong mắm rất cao, không thích hợp với cơ thể
người có tuổi.
- Muối: Đã co nhiều
công trình nghiên cứu và các cuộc điều tra dịch tễ học dinh dưỡng ở thực địa về
mối liên quan không thể chối cãi giữa mức tiêu thủ muối ǎn với mức độ thường
gặp bệnh huyết áp cao. Theo Freiss (1976) thì:
+ Dưới 250mg muối/người/ngày: không gặp huyết áp
cao trong nhóm dân cư.
+ Từ 250mmg đến 1600mg muối/người/ngày: rất ít
gặp huyết áp cao.
+ Từ 1,6 đến 8g muối/người/ngày: số người cớ
huyết áp cao trong nhóm dân cư lên đến 15%.
+ Với mức tiêu thụ muối trên 8g muối/người/ngày:
số người huyết áp cao có thể lên tới 30% tổng số người dân trong nhóm dân cư.
Có hai thực tế thường được các tác giả nghiên cứu
về muối ǎn và huyết áp nhắc đến: + Những người bộ lạc Yanamamo ở vùng biên giới Venezuela và Brasil sống bằng
nghề trồng chuối để ǎn quả thỉnh thoảng ǎn thêm sản phẩm sǎn bắn và đánh cá, họ
không ǎn muối, không có huyết áp cao và huyết áp cũng không tǎng theo tuổi.
+ Người Nhật Bản những nǎm 1950 tiêu thụ trung
bình 20g muối/ngày.
Cá biệt có người ǎn
tới 50g. Trong thời gian này, Nhật Bản là nước có nhiều người mắc bệnh huyết áp
cao nhất (50% những người từ 50 tuổi trở lên) có nhiều người bị tai biến mạch
não với tỷ lệ tử vong cao nhất (25% tổng số tử vong). Trước tình hình này Nhật
Bản đã tiến hành giáo dục, vận động quần chúng giảm lượng muối tiêu thụ hàng
ngày xuống dưới 10 gam và thấp hơn nữa. Nǎm 1981, tại hội nghị chuyên đề về tai
biến mạch não (TBMN) ở Châu á và Thái Bình Dương lần thứ nhất đại diện Nhật thông báo: số
người bị chảy máu não giảm 40%, tắc mạch não giảm 24% số người chết vì TBMN giảm. Trong 52 nước tham dự hội nghị, Nhật từ
hàng thứ 1 xuống hàng thứ 16 về tử vong do TBMN.
- Rượu: đối với người
trẻ, khỏe mạnh, cơ thể có thể chuyển hóa rượu tạo ra nǎng lượng, 1g rượu nguyên
chất cho 7 cao với điều kiện rượu uống vào trong 24 giờ không quá 100g và uống
rải ra nhiều lần trong ngày.
Khác với thức ǎn
thường, rượu được hấp thu rất nhanh. Đến đoạn đầu của ruột non 80% lượng rượu
uống vào đã vào đến máu và từ đó đến tất cả tổ chức, ,thiều nhất và lâu nhất ở não và ở gan.
Người có tuổi thường
có nhiều nhược điểm về sức khỏe, huyết áp cao, xơ mỡ động mạch, thiếu máu tim,
rối loạn tuần hoàn não, chức nǎng thận, gan bị suy yếu thường gặp bệnh đái tháo đường. Những nhược điểm này là
tiền đề của nhiều tai biến như tai biến mạch não, nhồi máu cơ tim.
Cho nên, đối với người
có tuổi, rượu, kể cả rượu thuốc là một đồ uống nên tránh sử dụng đều đặn hàng
ngày. Đối với người có tuổi khỏe mạnh, rượu nhẹ loại lên men như rượu vang, bia
dùng trong những ngày vui có thể cho phép dùng với liều nhỏ.
Con người tạo ra thức
ǎn, nhưng cũng có thể nói thức ǎn tạo ra con người. "Hãy nói cho tôi biết
anh ǎn như thế nào, tôi sẽ cho anh biết anh là ai". Khi được hết cụ thể về
tình hình ǎn uống của một người, ta có thể đoán biết những điều khá cơ bản về
người ấy (sức khỏe, nề nếp sinh hoạt, tính tình, khả nǎng lao động, triển vọng
sức khỏe, bệnh tật, sống lâu hay chết sớm).
Những điểm cơ bản về
dinh dưỡng cho người cao tuổi, không chỉ là những điều cần thiết áp dụng cho
lứa tuổi này, mà còn là những điều bổ ích cho đối tượng trưởng thành cần lưu ý
để có một tuổi già khỏe mạnh, hữu ích và hạnh phúc.