Định nghĩa
Hội chứng
hang bao gồm các triệu chứng lâm sàng gây nên bởi sự có mặt của một hoặc nhiều hang
trong nhu mô phổi đã thải ra ngoài qua
phế nang.
Cơ chế
Nhắc lại giải
phẫu bệnh
Trước khi bị
huỷ hoại hoàn toàn và thải ra ngoài phế nang, nhu mô vùng tổn thương đã qua giai đoạn đông đặc. Hang phổi bao
giờ cũng có những vách gồm những phế
nang bị đông đặc, vách đó có thể dày
hay mỏng tuỳ theo mức độ của tổn thương. Hang đã lâu ngày thường có vách xơ cứng và nhẵn. Hang mới có vách gồ ghề gồm những tổ chức đông đặc đã hoá nhuyễn. Hang
có thể đứng riêng hoặc thông với nhau. Ngoài tổn thương của phế
nang, ta còn thấy tổn thương viêm phế quản,
màng phổi và mạch máu phổi.
Những nhánh
nhỏ của động mạch phổi ở vách hang bị viêm có thể phình vào phía trong hang. Đó
là phồng động mạch Rasmussen. những thay đổi về
giải phẫu bệnh có thể biểu hiện trên lâm sàng bằng 3 triệu chứng đi cùng với nhau: hội chứng đông đặc, do nhu mô phổi bị
đông đặc gây nên, và hội chứng hang, do có khoảng trống trong lòng nhu mô phổi
bị viêm.
Lâm sàng hội chứng hang
Trường hợp điển hình
Là trường hợp
có hội chứng đông đặc kèm theo các triệu chứng của hang.
Rung thanh tăng, mức độ tăng tuỳ thuộc vào mật độ và bề dày của vách hang.
Gõ đục: Nếu hang rộng, đường kính lớn hơn 6 cm và ở gần thành ngực thì gõ
sẽ trong hơn phổi bình thường, nghe như tiếng vang trống.
Tiếng phổi hang: Trầm, rỗng, rõ nhất ở thì hít vào
(xem bài: tiếng thổi, tiếng rên, tiếng cọ). Ngoài ra còn nghe thấy tiếng rên ướt
vang hay rên hang. nhất là sau khi người bệnh ho, rên vang
càng rõ và tạo với tiếng thổi hang một tiếng lọc xọc đặc biệt, gọi là tiếng hơi và nước. Nếu hang lớn đường
kính thường hơn 6cm,và ở gần thành
ngực, ta có thể nghe thấy tiếng thổi vò và các tiếng rên với âm sắc kim loại. Một
dấu hiệu nữa có thể hướng tới chẩn đoán hang phổi là tiếng ngực (peertoriloquie). Khi người bệnh đếm một, hai, ba, ta
nghe ở vùng tổn thương tiếng nói rất rõ ràng, và có cảm tưởng tiếng nói xuất
phát từ thành ngực, nếu đếm thầm một, hai, ba, ta nghe vẫn rõ hơn bên phổi lành
đối xứng, đó là tiếng ngực thầm
(pectoriloquie aphone).
Tiếng ngực
hay tiếng ngực thầm là tiếng nói được truyền qua hang phổi đã đóng vai trò một
hòm cộng hưởng ở giữa nhu mô phổi đông đặc.
Tiếng thổi hang, rên vang và tiếng ngực thầm hợp thành bộ ba cổ điển về nghe
trong hội chứng hang Laennec.
Trường hợp không điển hình
Là những trường
hợp trên làm sàng không biểu hiện đủ hội chứng hang hoặc không thấy. Nguyên nhân là hang
nhỏ quá, hoặc ở xa thành ngực không thông với phế quản.
Nhiều khi ta
nghe không được nay đủ bộ ba Leannec, hang chỉ biểu hiện bằng hội chứng đông đặc
kèm theo tiếng rên vang.
Nếu vách
hang mỏng quá, lâm sàng cũng
không phát hiện được tiếng thổi hang, nếu hang ở sâu trong nhu mô phổi.
Hang to, gần
thành ngực có biểu hiện như tràn khí màng phổi cục bộ ở một vùng mất rung thanh, gõ vang trống,
mất rì rào phế nang, có tiếng thổi vò.
Hang nhỏ
quá, hoặc không thông với phế quản, thường không phát hiện được lâm sàng. Những
hang phổi không có biểu hiện lâm sàng gọi là “hang câm”.
Hội chứng giả hang
Là những trường
hợp có tiếng thổi hang, nhưng không có hang trong nhu mô phổi.
Trong giãn phế quản, ta có thể thấy hội chứng
hang ở một hay cả hai đáy phổi.
Tiếng thổi
hang hay thổi từng ngày từng giờ, tuỳ theo phế quản giãn chứa đớm nhiều hay ít.
Hội chứng giả hang trong giãn phế quản giãn to ra nằm trong một vùng nhu mô phổi viêm kinh
diễn gây nên. Các phế quản giãn đóng vai trò hòm cộng hưởng ở giữa tổ chức phổi
đông đặc, điều kiện cần thiết gây ra tiếng thổi hang. Chẩn đoán phân biệt với
hang thực nghĩa là hang trong nhu mô phổi, phải có x quang, chụp phế quản
bằng chất cản quang lipidol sẽ thấy
các đoạn phế quản giãn phình ở vùng có tiếng thổi hang. Giãn phình có thể hình trụ, hình túi,
hình bóng tròn. Lâm sàng không có chẩn đoán quyết định, nhưng có một chi tiết đáng
chú ý là tình trạng người bệnh tốt, so với
các triệu chứng thực thể ở phổi.
Phế quản lớn
bị kéo lệch vị trí, trong xơ phổi,
cũng gây ra tiếng thổi hang, nghe rõ ở phía sau, vùng hố trên gai. Trong những
đợt viêm cấp xuất hiện thâm các tiếng rên khô, rên ướt, nên càng làm ta nghĩ
nhiều tới hội chứng hang.
Phải có X quang chẩn đoán phân biệt.
Triệu chứng X quang
Biểu hiện
chung
Là một hình
tròn sáng, bờ đậm, dày nhiều hoặc ít. Hang có nhiều loại khác nhau về kích thước,
hình thái, vị trí, số lượng.
Cụ thể:
Ở một thuỳ
phổi hoặc rải rác nhiều nơi.
Rất lớn, chiếm
cả một thuỳ hoặc nhỏ, lỗ chỗ như tổ ong
Có hơi và nước: mực nước nằm ngang theo đường chân trời. Đây là hình ảnh
thường gặp của ápxe phổi. (khi bệnh nhân chụp ở tư thế đứng)
Khi soi, nếu
bảo người bệnh ho, sẽ thấy hang co rúm lại, nhưng sự thay đổi hình dạng của
hang còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố vật lý phức tạp, nên khí hang không có, hoặc
ngược lại, căng to khi người bệnh ho.
Ta nên phối
hợp chiếu và chụp. Trong trường hợp nghi ngờ nên chụp cắt lớp, có khi chụp phế quản bằng Lipiodol.
Chẩn đoán phân biệt
Các hình
sáng, tròn của nhu mô phổi, hoặc do tia x quang đi qua một số thành phần ở lồng ngực dưới một góc độ
nhất định, hoặc do một tổn thương ở phổi nhưng không phải hang tạo nên, có thể
làm ta nghĩ tới hang phổi.
Vòng cong của
xương sườn tạo nên: Vòng cung xương sườn kết hợp với hình mờ của huyết quản phổi
có thể tạo ra hình ảnh giả hang, nhất là trên đỉnh phổi. Nhưng nếu để bệnh nhân ho, sẽ không thấy hình tròn co rúm, trên phim chụp ta thấy hai hình tròn
đối xứng nếu là ở đỉnh phổi, hình ảnh giả hang do xương sườn 1 tạo nên, và hình
tròn sáng này mất đi ở tư thế nghiêng.
Hình ảnh giả
hang của phế quản: Tia x qua thiết diện ngang của phế quản tạo nên một hình tròn
sáng nhỏ. Hình này đi bên cạnh, song song với một huyết quản cản quang gọi là hình
ống nhòm.
Tràn khí
màng phổi cục bộ: Trên phim có thể thấy tràn khí tạo thành một góc nhọn với
thành ngực, và vách tràn khí thường mỏng, khác với hang tạo thành một góc tù với
thành ngực và có vách dày hơn.
Kén hơi: Hình ảnh cũng tròn như hang nhưng
vách rất mỏng.
Trên đây là
những hình ảnh thông thường có thể làm ta chẩn đoán nhầm hang phổi. Nhưng sự phối
hợp với lâm sàng là cần thiết: rất khó
nghĩ tới hang phổi ở một người khoẻ mạnh, không sốt,, không khạc nhổ.
Nguyên nhân
Có nhiều
nguyên nhân gây ra hang phổi:
Lao phổi: Hang thường có ở đỉnh phổi. Bệnh nhân
ho và sốt âm ỉ kéo dài,toàn trạng sút kém dần, xét nghiệm đờm có trực khuẩn
lao.
Áp xe phổi: Bệnh cảnh nhiễm khuẩn cấp hoặc bán cấp,
có ộc mủ, xét nghiệm mủ có vi khuẩn gây bệnh, bạch cầu tăng cao trong máu, đa
nhân trung tính có thể lên tới 80-90%. Trên phim có thể thấy hình hang có mức nước. Trong bệnh tụ
cầu ở phổi thường người bệnh khó thở nhiều, lâm sàng có nhiều triệu chứng của
viêm phổi đốm, x quang phát hiện nhiều
hang ở rải rác hai bên phổi.
Ung thư phổi: Ung thư bội nhiễm có thể gây áp xe, tạo
thành một hình hang nham nhở ở giữa một
khối mờ ở ung thư.