chia ra hai phần:
(1) Phân tiêu hoá trên: Miệng, họng, thực quản. Phần dưới: Hậu
môn và trực tràng. Mỗi bộ phận có một cách khám riêng.
(2) Phần tiêu hoá giữa: Dạ dày, ruột non, ruột kết, gan,mật,
tuỵ, đều (.) ổ bụng, thăm khám chung - khám bụng.
* Khám phần tiêu hóa
trên và dưới
Khám môi
Bình thường: hồng, cân xứng
Bệnh lý:
- tím (.) suy tim, suy hô hấp (hen, giãn phế nang…).
- nhợt (.) thiếu máu.
- to ra (.) to cực
- nổi u cục cứng/ sùi (.) u lành hoặc ác tính.
- tổn thương khác: mụn phỏng nhỏ mọng nước ở hai mép, chốc
mép, nứt kẽ mép giống hình chân ngỗng (.) giang mai bẩm sinh, môi trên tách đôi
bẩm sinh.
Khám hố miệng
Cách khám: BN há miệng, dùng đèn chiếu sáng or bảo BN quay
ra phía sáng, dùng đè lưỡi để khám thành bên, hai bên và nền miệng, chú ý lỗ ống
Stenon ở mặt (.) má cạnh răng hàm trên số 6 - 7.
Bình thường: Niêm mạc hố màu hồng, nhẵn hơi ướt.
Bệnh lý:
- mảng đen (.) bệnh Addison
- chấm xuất huyết (.) bệnh chảy máu.
- vết/ổ loét (.) bệnh nhiễm khuẩn, bạch cầu cấp, cam tẩu mã
(viêm miệng hoại thư: vết loét phát triển rất nhanh, đen và rất thối, do thiếu
Vitamin A, C hay PP)
- mụn mọng nước (.) nhiểm khuẩn toàn thân.
- u nang của tuyến nước bọt
- dị dạng bẩm sinh: vòm miệng tách đôi.
- Hạt Koplik màu đỏ ở giữa hơi xanh hoặc trắng, to bằng đầu
ghim, ở mặt trong má, gặp (.) bệnh sởi.
- Lỗ ống Stenon đỏ và sưng (.) bệnh quai bị.
Khám lưỡi
Xem hình thể, màu sắc, niêm mạc, gai lưỡi.
Bình thường: hồng,
hơi ướt, gai lưỡi rõ.
Bệnh lý:
- trắng bẩn or đỏ và khô (.) nhiễm khuẩn.
- đen (.) các bệnh: Addisson, thiếu vitamin PP, urê máu cao.
- vàng (nhất là mặt dưới lưỡi) (.) những bệnh gây vàng da.
- nhợt nhạt, mất gai (.) thiếu máu.
- bóng đỏ, mất gai và đau (.) thiếu máu hồng cầu to Biermer
(viêm lưỡi kiểu Hunter).
- Loét và nứt kẽ lưỡi: đặc biệt loét ở phanh dưới lưỡi, gặp
(.) bệnh ho gà.
- Những mảng trắng dày và cứng: Tình trạng tiền ung thư của
lưỡi.
- to đều (.) bệnh to các viễn cực, bệnh suy giáp trạng.
- Teo một bên lưỡi do liệt dây thần kinh dưới lưỡi. Các khối
u bất thường của lưỡi (lành tính và ác tính).
Khám lợi và răng
Lợi:
Bình thường: hồng, ướt, bám vào chân răng, giống niêm mạc miệng.
Bệnh lý:
- Có mảng đen (.) bệnh Addisson.
- Loét (.) nhiễm độc mạn tính chì, thuỷ ngân, thiếu Vitamin
C, A, PP. Loét có thể chảy máu (.) thiếu Vitamin C.
- Chảy mủ chân răng: Dùng đè lưỡi ấn vào chân răng, mủ sẽ chảy
ra. Mủ chân răng có thể đọng thành những túi nằm sâu giữa lợi và răng.
- Lợi sưng to: Do viêm có mủ, khối u của lợi, răng hoặc
xương hàm.
Răng:
Chú ý về số lượng, hình thái và tổn thương.
Bình thường:
- số lượng răng phụ thuộc vào tuổi:
6th: 2-4
2-5t: 20 răng sữa
11t: thay toàn bộ răng sữa.
12-18: 28 răng.
18 t trở đi: 28-32 răng.
- hình thái: mọc đều, men trắng bóng, không đau khi nhai or
gõ.
Bệnh lý: Các bệnh về răng có nhiều liên quan đến bệnh của bộ
máy tiêu hoá và toàn thân.
- mọc chậm, không đủ (.) bệnh còi xương.
- rụng nhiều và dễ dàng (.) bệnh ĐTĐ.
- Sâu răng: có vết đen và đau…
- Răng Hutchinson (.) giang mai bẩm sinh: Hai răng cửa trên
chệch hướng, bờ lõm hình bán nguyệt, bờ dưới hẹp (hình đinh vít).
Khám họng
Họng là ngã ba đường giữa hô hấp và tiêu hoá, thông với tai
qua vòi Eustache. Khi họng có tổn thương bệnh lý có thể ảnh hưởng đến nuốt, thở
và nghe.
Cách khám: BN há miệng, chiếu sáng họng, dùng đè lưỡi nhẹ
nhàng ấn lưỡi xuống, ta quan sát hình thái niêm mạc.
Bình thường: Phần trên là lưỡi gà và màn hầu. Hai bên là tuyến
hạnh nhân nằm giữa hai cột trước và sau. Phía sau là thành sau họng. Lưỡi gà và
màn hầu sẽ kéo lên bịt phần sau của mũi khi ta nuốt. Tuyến hạnh nhân bình thường
nhỏ nhắn. Niêm mạc của hầu đỏ hồng, ướt và nhẵn.
Bệnh lý:
- Màn hầu bị liệt một hay hai bên, khi nuốt không kéo lên được
và gây sặc lên mũi (dấu hiệu vén màn).
- Lưỡi gà bị tách đôi (.) dị dạng bẩm sinh.
- Tuyến hạnh nhân sưng to, có dạng hốc, có mủ, giả mạc khi bị
viêm cấp và mạn tính.
- Thành sau họng loét, có mủ, khối u, giả mạc.
Muốn quan sát phần trên vòm họng và lỗ vòi Eutache, cần phải
dùng gương và đèn chiếu, ta có thể thấy sùi vòm họng (VA) ở phần trên cuả vòm họng
và những tổn thương của lỗ vòi Eustache.
Khám thực quản
Thực quản nằm ở sâu không thể khám LS trực tiếp được. Cho
nên ngoài việc hỏi những dấu hiệu chức năng như nuốt đau, nuốt khó, trớ… có
tính chất gợi ý, cần phải sử dụng các phương pháp CLS như: soi thực quản và chụp
thực quản có thuốc cản quang để chẩn đoán những bệnh về thực quản.
Khám hậu môn và trực tràng
Những tổn thương ở hậu môn và trực tràng thường thấy những dấu
hiệu chức năng như đau rát ở hậu môn khi đại tiện, đại tiện khó, mót rặn, đại
tiện ra máu ra mũi.
Khám hậu môn:
Tư thế BN: Nằm phủ phục, hai chân quỳ hơi dạng, mông cao đầu
thấp, vai thấp, mặc quần thủng đít, hay tụt quần qua đùi. BS đứng đối diện quan
sát, dùng tay banh các nếp nhăn của hậu môn và bảo BN rặn để giãn cơ vòng, quan
sát phần niêm mạc bên trong.
Bình thường: Phần dạ của hậu môn nhẵn, các vết nhăn mềm và đều
đặn, niêm mạc bên trong hồng và ướt.
Bệnh lý:
- Giữa các nếp nhăn có lỗ rò: thường rất nhỏ, quan sát kỹ mới
thấy, nếu nặn có thể chảy ra mủ. Hoặc có thể thấy các vết xước giữa các nếp
nhăn, có khi thấy giun kim.
- Trĩ ngoại: thấy tĩnh mạch nổi to và ngoằn ngoèo có khi
thành từng búi chảy máu và sưng đau.
- Sa trực tràng: một đoạn trực tràng tuột qua hậu môn ra
ngoài. Vì cọ xát nên đoạn trực tràng này thường khô và xây sát. Có khi bình thường
không thấy nhưng khi rặn mạnh mới lòi ra.
Khám trực tràng:
Là một động tác cần thiết và bắt buộc (.) quá trình thăm
khám tiêu hoá, vì có thể phát hiện những tổn thương quan trọng như ung thư trực
tràng, trĩ hoặc tình trạng cấp cứu như viêm màng bụng chửa ngoài dạ con bị vỡ…
mà nếu bỏ qua có thể gây nguy hiểm đến tính mạng BN.
Tư thế BN:
(1) nằm phủ phục như khám hậu môn.
(2) nằm ngửa hai chân co và dạng rộng (tư thế sản khoa) BS đứng
bên phải BN.
(3) nằm nghiêng chân dưới duỗi, chân trên co.
BS dùng ngón tay trỏ
có bao cao su thấm dầu nhờn (dầu Parafin) cho trơn, đưa nhẹ nhàng và từ từ vào
hậu môn BN, thăm sự chứa đựng bên trong trực tràng, tình trạng niêm mạc và
thành trước, sau và hai bên trực tràng.
Bình thường:
- trực tràng rỗng, không đau khi ấn vào các túi cùng màng bụng
(túi cùng Douglas), niêm mạc mềm mại trơn nhẵn, khi rút tay ra không có máu và
mủ theo ra.
- Nam giới ở phía trước, ta sờ thấy tuyến tiền liệt nhỏ bằng
hạt đào, ở giữa có một rãnh dọc nông, mật độ hơi chắc và không đau, ở phía trên
là túi cùng, hai bên là túi tinh và niệu quản ưới, nhưng không sờ thấy.
- Nữ giới, qua thăm trực tràng phối hợp với tay đè ăn phía bụng
ta có thể thấy một phần tử cung.
Bệnh lý:
- Những cục phân cứng lổn nhổn có thể đẩy lên hoặc móc ra
theo tay.
- Trĩ nội: thấy từng búi căng phồng và ngoằn ngoèo ở dưới
niêm mạc khi rút tay ra có thể cháy máu.
- Tuyến tiền liệt to hơn bình thường và cứng → u lành hay ác
tính của tuyến tiền liệt.
- Thành của trực tràng có thể thấy những khối u to nhỏ, hoặc
những mảng cứng và rất dễ chảy máu khi khám: thường là ung thư trực tràng.
- Ngoài ra có thể sờ thấy những khối u hoặc hạch nằm ở gần
trực tràng, vùng đáy chậu.
- thấy túi cùng Douglas căng phồng và rất đau (.) viêm màng
bụng mủ, chảy máu ổ bụng do chửa ngoài dạ con bị vỡ.
(!) Những động tác khám hậu môn và trực tràng trên đây bắt
buộc BN phải bỏ quần, BS cần có thái độ tôn trọng BN, khám nhẹ nhàng, kín đáo,
tránh thô bạo sỗ sàng, nhất là đối với phụ nữ.
* Khám phần tiêu hóa
giữa
(.) ổ bụng có rất nhiều nội tạng thuộc các bộ máy khác nhau,
muốn thăm khám cần phải biết các vị trí của các phần đó ở (.) ổ bụng, và nhất
là hình chiếu của chúng lên thành bụng, cần phải nắm được sự phân khu của vùng
bụng.
Giới hạn của ổ bụng:
Phía trên là cơ hoành, phía dưới là hai cánh chậu, phía sau là cột sống và cơ
lưng, hai bên là cơ và cân thành bụng.
Phân khu bụng:
Phía trước:
- Kẻ hai đường ngang, đường trên qua bờ dưới sườn (điểm thấp
nhất), đường dưới qua hai gai chậu trước trên.
- Kẻ hai đường thẳng đứng qua giữa cung đùi phải và trái.
Kết quả chia bụng làm ba tầng, 9 vùng, mỗi tầng có 3 vùng.
- tầng trên: Giữa là vùng thượng vị, hai bên là vùng hạ sườn
phải và hạ sườn trái.
- tầng giữa: Ở giữa là vùng rốn, hai bên là vùng mạng mỡ phải
và trái.
- tầng dưới: Ở giữa là vùng hạ vị, hai bên là vùng hố chậu
phải và trái.
Phía sau: Là hố
thắt lưng giới hạn bởi cột sống giữa, xương sườn 12 ở trên, mào chậu ở dưới.
Hình chiếu của các cơ quan (.) bụng lên từng vùng
Thượng vị:
- Thuỳ gan trái.
- Một phần mặt trước dạ dày, tâm vị, môn vị.
- Mạc nối gan - dạ dày, (.) mạc nối có mạch máu và ống mật.
- Tá tràng.
- Tuỵ tạng.
- Đám rối dương.
- Động mạch chủ bụng (đoạn đầu). - Tĩnh mạch chủ bụng (đoạn
đầu).
Vùng hạ sườn phải:
- Thuỳ gan phải.
- Túi mật.
- Góc đại tràng phải.
- Tuyến thượng thận phải và cực trên thận phải.
Vùng hạ sườn trái:
- Lách.
- Dạ dày.
- Góc đại tràng trái.
- Đuôi tuỵ.
- Tuyến thượng thận trái và cực trên thận trái.
Vùng rốn:
- Mạc nối lớn.
- Đại tràng ngang.
- Ruột non.
- Mạc treo ruột và hạch mạc treo ruột.
- Hai niệu quản dọc hai bên cột sống.
- Động mạch chủ bụng và tĩnh mạch chủ bụng.
Vùng mạng mỡ phải:
- Đại tràng lên và ruột non.
- Thận trái.
Vùng mạng mỡ trái:
- Đại tràng xuống và ruột non.
- Thận trái.
Vùng hạ vị:
- Mạc nối lớn.
- Ruột non.
- Bàng quang.
- Đoạn cuối của niệu quản.
Vùng hố chậu phải:
- Manh tràng.
- Ruột non.
- Ruột thừa.
- Buồng trứng phải.
Hố chậu trái:
- Đại tràng sigma.
- Ruột non.
- Buồng trứng trái.
Vùng hố thắt lưng:
- Thận và niệu quản.
Cách khám bụng
Nguyên tắc
- Phải khám thật nhẹ nhàng từ nông tới sâu, chỗ lành trước
chỗ đau sau.
- Phải đặt sát cả bàn tay vào thành bụng, không nên chỉ dùng
năm đầu ngón tay.
- Phải khám nơi đủ ánh sáng, trời lạnh phải khám (.) buồng ấm.
Xoa tay trước khi khám, giải thích cho BN yên tâm.
Tư thế:
- BN nằm ngửa, hai tay duỗi thẳng, chân co, thở đều và sâu để
thành bụng được mềm, cởi áo hoặc vén áo lên ngực, nới bớt rút quần.
- BS ngồi bên phải BN.
Nhìn
Bình thường: Bụng thon tròn đều, thành bụng ngang với xương ức,
cử động nhịp nhàng theo nhịp thở, rốn lõm. Người béo hay phụ nữ đẻ nhiều bụng
bè ra, ở người phụ nữ đã đẻ trên da bụng có vết rạn da.
Bệnh lý:
Những thay đổi về hình thái:
- Bụng lõm hình lòng thuyền do suy môn vị, lao màng bụng.
- Bụng căng phình.
+ Do có hơi: Ruột, dạ
dày, chướng hơi.
+ Do có khối u: U thận,
u buồng trứng, u gan, lách to.
+ Do có nước: Khi nằm
bụng bè ra, lúc đứng bụng xệ xuống.
- Rốn lồi: Do thoát vị nước hay (.) bụng có nước.
- Thoát vị đường trắng làm cho ruột ở (.) thoát ra ngoài cơ
thẳng to quá đường trắng dưới lớp da bụng
Những thay đổi về cử động
của thành bụng: thành bụng co cứng không cử động theo nhịp thở, các cơ nổi
rõ gặp (.) co cứng thành bụng do viêm phúc mạc, thủng dạ dày.
Những triệu chứng bất
thường ở bụng: sẹo mổ, sẹo vết thương cũ ở bụng có giá trị gợi ý chẩn đoán
rất tốt; vết mổ đường mật, mổ dạ dày, mổ ruột thừa, mổ tử cung…
Nhu động kiểu rắn bò:
- Ở vùng thượng vị do tắc môn vị dạ dày.
- Ở vùng rốn do tắc ruột non.
- theo dọc khung đại tràng do tắc đoạn cuối đại tràng.
Tuần hoàn bàng hệ gặp
(.) tăng áp lực tĩnh mạch cửa, tắc tĩnh mạch cửa hoặc tĩnh mạch chủ.
Sờ nắn
Cần giải thích trước để BN yên tâm, không sợ đau, không sợ
buồn, chú ý đến động tác khám của BS ( có thể vừa khám vừa hỏi để đánh lạc sự
chú ý của BN).
Các phương pháp sờ nắn:
- Tìm điểm đau: Dùng một hay hai ngón tay ấn vào bụng để tìm
vị trí chính xác của điểm đau và vùng đau.
- Dùng hai bàn tay áp sát vào thành bụng day day theo một
vùng tròn ngược chiều kim đồng hồ. Sờ theo nhịp thở BN. Nếu thành bụng dày, cứng
dùng hai bàn tay chồng lên nhau để khám.
- Dùng hai bàn tay móc vào vùng hạ sườn phải hoặc trái BN,
thường dùng để khám bờ dưới gan và lách.
- Đẩy lắc: Một bàn tay luồn xuống dưới mạng mỡ hất lên, bàn
tay trên bụng ấn xuống đón lấy, thường dùng để khám gan và thận.
- Chạm bàn tay luồn dưới hố thắt lưng, một bàn tay ở trên ấn
xuống để khối u chạm vào tay dưới, dùng để phát hiện thận to.
- Tìm dấu hiệu sóng vỗ và dấu hiệu cục đá.
Bình thường: thành
bụng mềm mại, không đau, hông sờ thấy lách, thận, bờ dưới gan (trừ một phần của
thuỳ trái dưới mũi ức) không sờ thấy u hoặc cục bất thường ở bụng, ấn vào các
điểm đặc biệt không đau.
Bệnh lý:
Những thay đổi ở
thành bụng:
- phù nề: Khám thầy dầy và ấn vào có vết lõm.
- căng: Có nước hoặc có hơi.
- lồi lõm, chỗ rắn chỗ mềm: Viêm dính màng bụng nhiều chỗ do
lao…
- co cứng và có phản ứng: Khi ấn vào thì thành bụng co lại,
đồng thời BN kêu đau, gạt tay ta ra không cho khám. Gặp (.) viêm màng bụng do bất
cứ nguyên nhân gì (thủng dạ dày, thủng ruột thừa).
Những điểm đau cần
chú ý khi khám:
- Điểm đau túi mật: Chỗ bờ ngoài cơ thẳng to phải gặp bờ sườn
bên phải. Đau khi viêm túi mật. Đối với điểm túi mật ta còn làm nghiệm pháp
Murphy: Ấn nhẹ ngón tay vào điểm túi mật rồi bảo BN hít vào sâu, nếu đau BN sẽ
dừng thở lại đột ngột, nghiệm pháp dương tính gặp (.) viêm túi mật.
- Điểm đau Mac Burney: Điểm chia 1/3 ngoài và 2/3 (.) của đường
giữa rốn và gai chậu trước trên bên phải. Đau khi viêm ruột thừa.
- Điểm cạnh mũi ức bên phải đau (.) bệnh giun chui ống mật.
- Vùng đau đại tràng họp thành một đường dọc theo đại tràng
gặp (.) viêm đại tràng.
- Vùng đầu tuỵ và ống dẫn mật chủ: Ở (.) góc một cạnh là đường
giữa bụng, một cạnh là đường phân giác của góc đường giữa và đường ngang rốn
bên phải. Vùng này đau (.) viêm tuỵ, sỏi mật.
- Điểm sườn lưng: Góc giữa xương sườn thứ 12 và khối cơ
chung thắt lưng. Đau (.) viêm tuỵ cấp, viêm quanh thận.
- Các điểm niệu quản → thường do sỏi
Phát hiện khối u ổ bụng:
muốn biết khối u đó thuộc bộ phận nào? Tổn thương ra sao? Cần biết hình chiếu của
nó lên thành bụng và tìm lần lượt những đặc tính sau đây:
- Vị trí: Vùng trên rốn, hạ sườn, hố chậu, dưới rốn…
- Hình thể và kích thước: Thí dụ khối u hình quả đậu dài gần
10 cm, ngang 5-6 cm nghĩ đến thận, cần vẽ lại hình khối u trên giấy để tiện chẩn
đoán và theo dõi.
- Bờ tròn đều hay nham nhở: Những khối u ác tính bờ thường gồ
ghề nham nhở.
- Mặt nhẵn hay gồ ghề: Mặt lồi lõm cũng thường biểu hiện
tính chất ác tính của khối u.
- Mật độ cứng nhắc hay mềm: Lách to thường có mật độ chắc,
ung thư gan thường rắn, gan ứ máu thường mềm.
- Đau hay không? Đau thường biểu hiện viêm nhiễm.
- Di động hoặc cố định: Những khối u của lách, gan có thể di
động theo nhịp thở
- Ở nông hay sâu: Khối u của gan, mạc treo thường nông, khối
u thận ở sâu…
- Có đập theo nhịp tim không? Khối u mạch máu đập theo nhịp
tim.
(!) Đồng thời kết hợp gõ để xác định độ đục/ trong.
Gõ
Gõ bụng phối hợp với sờ nắn mang lại nhiều giá trị chẩn
đoán.
Bình thường:
- Vùng đục của gan
- Vùng vang trống của túi hơi dạ dày (khoảng traube): Hình
bán nguyệt ở phần dưới lồng ngực ngay trên bờ sườn trái.
- Vùng đục của lách
Bệnh lý:
- Gõ vang toàn bộ: Bụng chướng hơi.
- Gõ trong vùng trước gan: thủng dạ dày, thủng ruột. do hơi
thoát ra làm tách gan khỏi thành bụng.
- Gõ đục toàn bộ hay đục ở vùng thấp: Bụng có nước.
- Gõ đục một phần: khối u có nước cục bộ.
Nghe
Ít giá trị nên chỉ sử dụng (.) một số trường hợp đặc biệt.
- tắc môn vị ứ nước dạ dày: Lắc BN vào lúc sáng sớm còn đói
nghe thấy tiếng óc ách của dạ dày.
- tắc ruột có ứ hơi nước: Sờ nắn ta có thể thấy tiếng hơi
chuyển ùng ục trong bụng.
- Dùng ống nghe dọc theo đường đi của động mạch, tĩnh mạch
(.) bụng, nghe thấy tiếng thổi (.) trường hợp hẹp hoặc viêm tắc động mạch chủ,
động mạch thận…(nghe cả phía trước và phía sau).
Khám phân
Là động tác cần thiết không thể thiếu (.) quá trình thăm
khám tiêu hoá.
Bình thường: Phân nàu vàng dẻo, đóng thành khuôn, khối lượng
chừng 200 -300g mỗi ngày.
Bất thường: Phân có thể thay đổi.
- Về số lần đại tiện: ỉa chảy, táo bón.
- Về khối lượng: (.) kiết lị lượng phân rất ít.
- Về độ rắn, mềm, lỏng.
- Về chất phân:
+ Phân có màu vàng mỡ:
Suy gan, tắc mật.
+ Phân bóng, quánh, vàng mỡ: Suy tuỵ
+ Phân sống, lổn nhổn, thiếu dịch vị.
+ Phân lẫn máu và
mũi: hội chứng kiết lị.
- Về mùi: mùi khắm hoặc chua do rối loạn quá trình lên men
(.) ruột.
(!) Ngoài nhận xét lâm sàng ta còn cần xét nghiệm phân về
phương diện vi mô, hoá học có thể giúp cho chẩn đoán các bệnh về tiêu hoá nhất
là các bệnh của ruột, tuỵ tạng và gan mật.
Thông dạ dày tá tràng
Thông dạ dày: Đặt
ống thông vào dạ dày lấy dịch dạ dày để đánh giá về số lượng và chất lượng là một
động tác cần thiết (.) việc thăm
khám dạ dày.
Dụng cụ:
- Ống Einhorn.
- Cốc thuỷ tinh có chân, chia độ, loại 200ml.
- Bơm tiêu 20ml.
- Một số ống nghiệm.
- Dầu Parafin.
Cách tiến hành:
Sáng sớm lúc đói (chưa ăn và uống), BN ngồi thoải mái và được chuẩn bị tư tưởng
từ trước.
Đặt nhẹ đầu ống Einhorn đã được chấm đầu parafin cho trơn
qua miệng BN, khi vào đến họng, bảo BN thở đều và nuốt dần, vừa nuốt ta vừa đẩy
nhẹ ống cho đến mứa 45 cm hay 50 cm thì dừng lại vì đã vào đến dạ dày. Sau đó
dùng bơm tiêm hút dần nước dịch dạ dày hoặc để tự nhiên cho chảy ra.
Bình thường:
- Về số lượng: Dịch dạ dày lúc đói không quá 100ml, trung
bình là 40ml.
- Mùi: Không có mùi.
- Màu: Không có màu hoặc hơi trắng đục.
- Độ trong: trong hoặc hơi trắng đục, không có lẫn thức ăn.
Bất thường:
- Số lượng: Dịch dạ dày lúc đói nhiều hơn 100ml, dạ dày đa
tiết, dịch tá tràng trào lên. Hẹp môn vị: Dịch dạ dày rất nhiều có lẫn thức ăn
từ chiều hôm trước chưa tiêu.
- Màu sắc:
+ Vàng hay xanh: Do dịch
Tá tràng trào lên.
+ Đỏ hồng: Máu mới chảy
(.) dạ dày.
+ Nâu đen: Máu chảy
(.) dạ dày đã lâu.
(!) Dịch dạ dày có máu thường nổi lên tổn thương thực thể của
dạ dày: Viêm loét, ung thư dạ dày… Để chẩn đoán các bệnh của dạ dày, khi thông
dạ dày ta còn tiến hành làm thí nghiệm: Histamin, insulin và các nước Âu châu
thì dùng bữa ăn Ewan với bánh mì, sau đó theo dõi các thay đổi về số lượng và
sinh hoá của dịch dạ dày.
Thông tá tràng:
Cũng giống như thông dạ dày, đặt ống thông vào tá tràng, lấy dịch tá tràng, mật,
dịch tuỵ, sau đó đánh giá các thay đổi về chất lượng và số lượng để chẩn đoán
các bệnh về gan, mật, tuỵ.
Dụng cụ:
- Ống Einhorn.
- Một số ống nghiệm.
- Dầu Parafin.
- Bơm tiêm 20ml.
- Dung dịch Magiê Sunfat 30%: 30ml.
- Dầu lạc hay dầu Oliu: 20ml.
Cách tiến hành:
Tiến hành giống như lấy dịch dạ dày. Sau khi ống thông vào đến dày thì: để BN nằm
nghiêng qua phải, sau 30 phút đến 1 giờ, đầu ống Einhorn vào đến tá tràng, xác
định được chắc chắn bằng tính chất dịch hút ra ( thử với giấy quỳ → màu xanh →
kiềm → dịch tuỵ) và sẽ hút được mật ra, sau đó bơm thêm chất Magiê sunfat hoặc
dầu lạc để kích thích tiết mật.
Bình thường: Ta lấy
được 3 loại mật:
- Mật A màu vàng nhạt và (.), lượng chừng 20ml, là mật ở ống
mật.
- Mật B xuất hiện sau khi kích thích bằng bơm Magiê Sunfat
hay dầu lạc. Mật B màu xanh hoặc vàng sẫm rất quánh, lượng từ 40-60ml: là mật của
túi mật.
- Mật C tiếp theo mật B, màu vàng nhạt hơn và ít quánh hơn mật
B, đó là mật từ gan xuống.
Bệnh lý:
- Không lấy được mật:
+ Hoặc ống thông chưa
vào tới tá tràng, muốn biết có vào đến tá tràng hay còn (.) dạ dày ta kiểm tra
bằng giấy quỳ (nếu có phản ứng kiềm - đã vào đến tá tràng; phản ứng toan - còn ở
(.) dạ dày), có thể kiểm tra bằng X quang nếu có điều kiện.
+ Hoặc ống thông đã vào đến tá tràng nhưng đường mật bị cản
trở, mật không xuống được (.) u đầu tuỵ, sỏi mật, u đường mật..
- Không có mật B: Túi mật bị loại do teo hoặc do sỏi làm tắc
ống túi mật.
- Khi hút mật có thấy bùn mật hoặc những sỏi nhỏ - gặp (.) sỏi
đường mật.
(!) Bằng phương pháp thông tá tràng định phút và các xét
nghiệm vi mô, sinh hoá của nước mật ta chẩn đoán được sự hoạt động chức năng của
đường mật, túi mật và nguyên nhân của những bệnh gan mật.
Kết luận: Bộ máy
tiêu hoá gồm rất nhiều bộ phận khác nhau, nằm sâu (.) ổ bụng các triệu chứng rất
phức tạp. Muốn khám phát hiện các triệu chứng cần phải hỏi kỹ về chức năng,
thăm khám tuần tự từng phần một hệ thống, khám tỉ mỉ cẩn thận. Bằng cách kết hợp
các triệu chứng lâm sàng ta có thể chẩn đoán một số lớn bệnh về tiêu hoá, tuy
nhiên để chẩn đoán chính xác và chi tiết hơn, để phát hiện (.) một số trường hợp
khó ta cần kết hợp với các phương pháp cận lâm sàng.