2018-01-28

Chương V Ǎn uống hợp lý của người cao tuổi

Chương V Ǎn uống hợp lý của người cao tuổi
Con người là một hệ thống, một cỗ máy tiêu thụ nǎng lượng để hoạt động, cỗ máy này cũng bị hao mòn trong quá trình sử dụng.
ǎn uống qua thức ǎn, cung cấp nǎng lượng cho các hoạt động của cơ thể và tu bổ những hao mòn đảm bảo cho các chức nǎng của cơ thể được hoạt động bình thường. Đối với người cao tuổi, ǎn uống càng quan trọng vì qua nhiều nǎm hoạt động cỗ máy cũng đã có nhiều đổi thay.
I. NHU CầU DINH DƯỡNG ở NGƯờI CAO TUổI
1. Trước hết nói về nhu cầu nǎng lượng.
Người cao tuổi hoạt động ít hơn, khối cơ (bắp thịt) của người cao tuổi cũng giảm đi khoảng 1/3 so với tuổi trẻ. Với một người 70 tuổi, nhu cầu nǎng lượng giảm đi khoảng 30% so với tuổi. Do đó người cao tuổi phải ǎn ít hơn lúc còn trẻ. Nếu thấy vẫn ǎn ngon miệng mà ǎn quá thừa thì sẽ mắc bệnh béo trệ. Có thể tham khảo công thức Lorentz sau đây để tính trọng lượng nên có:
Trong đó: - P là trọng lượng nên có tính bằng kg
- h là chiều cao tính bằng cm

Ví dụ: Với nam cao 160 cm trọng lượng nên có là:
Với nữ cũng cao 160cm trọng lượng nên có là:
Cũng có thể dùng một công thức đơn giản hơn tính chung cho cả nam nữ.
P : 50 + 0,75 ( h – 150)
Với người cao 160cm trọng lượng nên có:
P = 50 + 0,75 ( 160 - 150 ) = 57,5 kg. .
Đơn giản hơn nữa lấy chiều cao tính bằng cm trừ đi 100 rồi lấy 9/10 của trọng lượng đó. Ví dụ một người cao 160 cm. Trừ đi 100 còn 60 lấy 9/10 của 60 là 54 kg.
Vài cách tính nói trên cho thấy khái niệm trọng lượng nên có không có ý nghĩa tuyệt đối mà chi có giá trị hướng dẫn, tham khảo, nghĩa là một người cao 160 cm có trọng lượng lúc trẻ khoảng 55 kg là tất. Và tất nhiên không nên vượt quá mức 60 kg (10/10). Nếu lên đến 66 kg (11/10) là béo.
Gần đây tổ chức khuyên dùng chỉ số khối cơ thể (Body mass index) để đánh giá tình trạng dinh dưỡng:
Cân nặng(kg)
Chỉ số BMI cao hơn giới hạn trên 25 là béo và thấp hơn 18,5 là gấy.
Ví dụ: Một người nặng 57,5 kg cao 1m60
Người đó dù là nam hay nữ đều vào loại bình thường không gầy, không béo.
- Nếu người đó nặng 66 kg thì BMI sẽ bằng:

Thì nam hay nữ đều thuộc loại béo.
Đối với người nhiều tuổi, trọng lượng nên có tất nhiên phải thấp hơn trọng lượng đã tính, và trọng lượng đó nên coi là trọng lượng tối đa cho phép.
Ví dụ: Một người cao lm70. Từ nhiều nǎm vẫn điều chỉnh vấn đề ǎn uống và giữ cân ở mức nên có 63 kg (70kg x 9/10). Nhưng đến lứa tuổi trên 70 mức đó quá cao vì khối cơ teo đi và thay vào đó là khối mỡ, bụng to ra do đó cân nặng vẫn giữ nguyên cho nên cần rút bớt xuống khoảng 60kg, bớt đi 3kg mỡ thừa.  lứa tuổi trung niên mỗi bữa 3-4 bát cơm nay chỉ ǎn mỗi bữa một bát cũng vẫn giữ được cân.
2. Về nhu cầu chất ngọt (gluxit).
Tuổi càng cao càng giảm mức chịu đựng đối với chất ngọt: 70% ở nhóm tuổi 60-74 và 85% ở lứa tuổi trên 75 bị giảm mức chịu đựng đối với chất ngọt. Đây là tiền đề dễ bị mắc bệnh đái tháo đường. ởtrên 60 tuổi tỷ lệ người bị đái tháo đường cao hơn 8-10 lần so với dân cư chung. Chúng ta đều biết khi ǎn nhiều đường, uống nhiều nước ngọt, ǎn nhiều kẹo
bánh ngọt, đường hấp thu vào máu rất nhanh tạo ra một đỉnh cao, một thời điểm đường huyết cao buộc tụy tạng phải hoạt động đột xuất tiết ra insulin để điều chỉnh đường huyết. Nếu sự kiện này diễn ra nhiều lần trong ngày và diễn ra liên tục trong thời gian dài, đặc biệt ở người cao tuổi thì sẽ bắt tụy tạng hoạt động quá tải gây ra bệnh đái đường. Cho nên đối với người cao tuổi phải hạn chế ǎn đường, hạn chế uống nhiều nước ngọt và ǎn nhiều bánh kẹo. Chất ngọt là chất cung cấp nǎng lượng cho cơ thể. Nên dùng chất ngọt (gluxit) từ nguồn chất bột: cơm, bánh mì... Vì các chất ngọt này được tiêu hóa, hấp thu, dự trữ ở cơ thể và chỉ giải phóng ra từ từ đưa vào máu theo nhu cầu hoạt động của cơ thể cho nên không làm tǎng đường huyết đột ngột lên đỉnh cao.
3. Về chuyển hóa chất béo (lipit).
 thể thừa chất ngọt (gluxit) sẽ chuyển thành mỡ dự trữ.  người cao tuổi hoạt động của men lipaza phân giải chất mỡ giảm dần theo tuổi và cơ thể có xu hướng thừa mỡ trong máu, cholesterol trong máu tǎng, dễ có rối loạn trong thành phần cấu tạo các nhóm mỡ.
Đó là tiền đề dẫn đến vừa xơ động mạch (VXĐM) rồi ảnh hưởng đến cơ tim với các cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, phồng động mạch vành, ảnh hưởng đến thiếu máu cục bộ  não gây mất ngủ, rức đầu, ù tai, chóng mặt, hay quên, giảm khả nǎng tư duy, tập trung tư tường. Nặng hơn có thể bị xuất huyết não, liệt nửa người, hôn mê .
Cần bảo vệ hệ thần kinh trung ương trong phòng và chữa VXĐM. Hạn chế cǎng thẳng, luyện tập thân thể đều, sinh hoạt điều độ đảm bảo giấc ngủ. Hạn chế cao trong khẩu phần ǎn, giảm mỡ động vật, tǎng ǎn dầu thực vật, hạn chế muối, bớt đường, ǎn nhiều rau quả.
4. Về chuyển hóa protein.
 người cao tuổi tiêu hóa hấp thu protein kém, khả nǎng tổng hợp của cơ thể cũng giảm do đó dễ xảy ra trạng thái thiếu protein cho nên cần chú ý đảm bảo chất protein cho người cao tuổi.
Nói tới protein thì người ta nghĩ ngay đến thịt. Chúng ta đều biết tiêu hóa thịt thường đi đôi với một quá trình phân giải tạo ra các chất có sunfua ở đại tràng và là những độc tố ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe. Mùi hôi nặng nề khi trung và đại tiện phản ảnh một phần hậu quả của hiện tượng có nhiều chất chứa sunfua khi ǎn nhiều thịt. Đặc biệt nếu lại bị táo bón, các chất độc này không được thải ra ngoài nhanh lại bị hấp thu vào cơ thể gây ra một loại nhiễm độc trường diễn rất có hại cho sức khỏe. Cho nên đối với người nhiều tuổi nên hạn chế ǎn thịt, nhất là thịt mỡ mà nên thay vào ǎn cá vì cá có nhiều đạm quí, dễ tiêu, ít sinh khí sunfua hơn thịt lại có nhiều axit béo không no rất cần đối với người có tuổi, có cholesterol cao. .
Người có tuổi nên ǎn nhiều chất đạm nguồn thực vật vì ít tạo sunfua. Ngoài ra các thức ǎn nguồn gốc thực vật còn có xơ trong thức ǎn có tác dụng giữ cholesterol trong ống tiêu hóa và sau đó thải ra theo phân. Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy sợi xơ trong thức ǎn làm hạ cholesterol tự do trong máu.
Tóm lại người cô tuổi nên ǎn giảm thịt nhất là thịt mỡ, ǎn thêm nhiều bữa cá trong tuần và tǎng cường sử dụng đậu phụ, sữa đậu nành, sữa chua từ đậu nành, các loại đậu đỗ và lạc. Các nguồn đạm này ít sinh sunfua, có nhiều chất xơ giúp thải ra theo phân chất cholesterol.
5. Chuyển hóa nước, vitamin và chất khoáng.
Người có tuổi thường giảm nhạy cảm đối với cảm giác khát nước, vì thế cần có ý thức đề phòng thiếu nước cho người có tuổi, có chế độ cho người có tuổi uống nước vào những bữa nhất định, ví dụ uống trà buổi sáng, uống nước vào buổi trưa, bớt uống nước vào buổi tối. Trong mùa hè cần tǎng cường lần cho uống nước.
Đối với người có tuổi, cần chú ý tới hoạt động của các gốc tự do trong cơ. Khái niệm về gốc tự do (FR) được đề xướng lần đầu tiên nǎm 1954 do nhà khao học Hoa Kỳ D.Harman trong luận thuyết về cơ chế tích tuổi (Free Radical Theory of Aging). Gốc tự do là những phân tử hoặc những mảnh vỡ của phân tử có một điện tử lẻ đôi ở quĩ đạo vòng ngoài. Do sự có mặt của điện tử này, các gốc tự do có một thuộc tính đặc biệt quan trọng là có khả nǎng oxy hóa rất cao. Nếu vì một lý do nào đó, thường là do đời sống quá cǎng thắng, gặp quá nhiều stress thì số lượng các gốc tự do tǎng cao bất thường vượt khỏi sự khống chế bình thường của hàng rào bảo vệ của các chất AO, thống oxy hóa (antioxydant) thì chúng sẽ khởi động những phản ứng dây chuyền oxy hóa các chất nền (substratum) đáng chú ý là các lipit, thành phần cấu tạo của tất cả các màng tế bào. Các gốc tự do và sản phẩm hoạt động của chúng, các dẫn chất peroxyt hóa sau khi gây tổn thương màng tế bào sẽ dẫn đến nhiều tổn thương khác như biến đồi cấu trúc các protẹịn, ức chế hoạt động các men, biến đổi cấu trúc và thuộc tính ác nội tiết tố.
Tổn thương do các gốc tự do gậy ra là cơ sở bệnh sinh học của những trạng thái bệnh thường gặp ở những người có tuổi như VXĐM, bệnh đái tháo đường, bệnh nha chu, bệnh ung thư...
Theo D.Harman, tích tuổi - già hóa - là hậu quả tổng hợp của tất cả các tổn thương xuất hiện và phát triển trong các tế bào tổ chức cơ quan, hệ thống của cơ thể do các gốc tự do gây ra.
II CáC BIệN PHáP CầN THIếT Để TǍNG TUổI THọ .
Đúng như nhà khoa học Pháp đã nói "Nghệ thuật tǎng tuổi thọ đó là nghệ thuật tránh làm giảm tuổi thọ ". Cần giảm sản sinh ra các gốc tự do FR và tǎng AO trong cơ thể. Cần tránh làm giảm tuổi thọ bằng cách:
1. Có một tâm hồn thanh thản, phấn đấu để được luồn sống trong niềm vui.
- Niềm vui kích thích tǎng cường sức sống của cơ thể, giúp duy trì thǎng bằng của hệ thần kinh và là một vũ khí cưỡng lại mọi cǎng thắng, mọi stress của cuộc sống hàng ngày. Người ta chỉ đến sống trên trái đất chắc chắn có một lần, chưa biết bao giờ được trở lại lần thứ hai, cuộc sống lại quá ngắn ngủi. Vậy tại sao lại dùng thời gian quý báu của mình để đi gây cǎng thẳng với người khác mà không dùng nó vào bao nhiêu công việc có ích mà con người đang rất thiếu thời gian để thực hiện: lao động, học tập, sinh hoạt nghệ thuật, tình bạn, đời sống gia đình êm ấm...
Tuy nhiên phải công nhận cuộc sống hiện tại rất cǎng thẳng có thể làm suy yếu cơ thể gây ra nhiều bệnh. Cho nện phải tạo điều kiện cho thần kinh bớt cǎng thẳng, lấy lại được sự bình thản, thoải mái, dành thời gian thư giãn hàng ngày. Thư giãn thực hiện dựa trên cơ sở giải quyết mối quan hệ giữa hoạt động thần kinh và trương lực cơ bấp,. bằng cách tập trung ý nghĩ vào cách' giãn mềm cơ bắp nhờ đó mà làm dịu cǎng thắng thần kinh, kết hợp với thư giãn tập thở sâu thở tối đa, thở nhịp nhàng.
2. ǎn uống hợp lý
- Tǎng cường các chất AO chống oxy hóa để chóng lại các gốc tự do (FR).
Các chất AO có nhiều  rau quả bao gồm:
Vitamin E, vitamin C, beta-caroten, vitamin P, vitamin nhóm B.
- Các chất màu trong thảo mộc, trong rau, quả.
- Tanin của trà.
- Các chất khoáng K, Mg, Zn, Cu, Se, Fe.
- Một số axit hữu cơ.
Uống nước chè, chè xanh, hoa hòe, ǎn nhiều rau, đặc biệt là rau lá xanh (rau muống, rau ngót, rau giền, rau đay, rau mùng tơi) ǎn nhiều gia vị (hành, hẹ, húng, diếp cá, lá lốt, rau thơm, rau mùi, rau rǎm...), ǎn củ gia vị (tỏi, gừng, riềng, nghệ) và ǎn nhiều quả chín sẽ cung cấp cho cơ thể nhiều vitamin và các chất khoáng làm cho đội ngũ bảo vệ AO trở thành hùng hậu để chống lại các phần tử gây rối là các gốc tự do (FR).
3. Nǎng vận động.
Ngoài yếu tố ǎn, còn một cách chống oxy hóa cơ thể rất có hiệu quả là vận động. Từ xưa Aristot đã nhận xét: "Không có gì làm suy yếu và phá hủy cơ thể con người bằng việc không vận động kéo dài".
Vận động chân tay không phải chỉ cấn thiết cho cơ bắp, xương, khớp mà còn tác dụng đến toàn cơ thể. Cơ thể được rèn luyện đều đặn sẽ hoạt động hài hòa, cho ta cảm giác đễ chịu, vui phấn khởi, yêu đởi, trí óc sáng suất và lao động có nǎng suất.
Cần dành thì giờ tập luyện đều đặn hàng ngàn theo một chế độ và phương pháp tự chọn phù hợp với sức khỏe và tuổi tác của từng người, phương pháp tập luyện thích hợp nhất với người cao tuổi là đi bộ và tập thở, thở sâu.
Tóm lại muốn chống lại hoạt động phá hoại của các gốc tự do gây già hóa nhanh cần thực hiện 3 biện pháp chính là:
- Chống lại sự phát triển gốc tự do ở trong cơ thể bằng cách uống thanh thản, bớt cǎng thắng, sống thân ái trong niềm vui với đồng nghiệp, bạn bè, gia đình.
-  chế độ ǎn giàu chất bảo vệ AO để chống lại, và hạn chế hoạt động của các gốc tự do (FR).
- Nǎng vận động để cơ thể người cao tuổi được khỏe mạnh, vui vẻ và không bị trì trệ trầm cảm.
III. NHữNG LờI KHUYÊN Cụ THể Về ǍN UốNG VớI NGƯờI CAO TUổI
  1. Người có tuổi cần ǎn bớt số lượng.
Cơm là nguồn cung cấp nhiệt lượng chủ yếu của nhân dân ta. Nếu còn trẻ ǎn bình thường mỗi bữa 3 bát cơm. Khi lao động nặng ǎn tới 4,5 bát. Thì nay nên ǎn rút xuống 2 bát rồi 1 bát. Theo dõi cân để đi.êu chỉnh mức ǎn, người nhiều tuổi nên lấy mức tối đa không được vượt quá 9/10 của chiều cao tính bằng cm trừ đi 100. Ví dụ người cao 160cm không được vượt quá:
2. Về mặt chất lượng bữa ǎn.
- Cần đảm bảo chất đạm, chủ yếu bằng chất đạm nguồn thực vật: đậu phụ, sữa dậu nành, sữa chua, tương, các loại đậu và cá. Giảm ǎn thịt nhất là thịt mỡ.
- ǎn dầu hoặc lạc, vừng, giảm ǎn mỡ.
- Hạn chế ǎn mặn, giảm án đường, giảm nước giải khát ngọt, bánh kẹo ngọt.
- Tǎng cường ǎn nhiều rau đặc biệt là rau lá xanh, ǎn nhiều rau gia vị, tuần nào cũng nên có món ǎn sử dựng các loại củ gia vị: tỏi, gừng,. riềng, nghệ. Chú ý giá đỗ.
3. Cách ǎn.
- Tránh ǎn quá no đặc biệt khi có bệnh ở hệ tim mạch, cần chú ý những ngày lễ, tết thường ǎn quá mức bình thường, và vui quá chén.
- Làm thức ǎn mềm và chú ý tới món canh. Cần quan tâm đến tình hình rǎng miệng, sức nhài, nuốt của người nhiều tuổi khi chế biến thức ǎn (già được bát canh) vì tuyến nước bọt và hàm rǎng của người nhiều tuổi hoạt động kém, vấn đề nuốt thức ǎn có khó khǎn.
- Phải theo dõi và kiểm tra vấn đề ǎn và uống của người nhiều tuổi.
Nhiều cụ ǎn rồi lại nói là chưa ǎn. Một số cụ ǎn nhưng không thấy cảm giác no nên ǎn quá mức, ǎn thừa. Một số cụ lại không thấy cảm giác khát nên cơ thể bị thiếu nước.
- Cần xây dựng một tập tục mới bữa ǎn có thực đơn tức là có kế hoạch cho bữa ǎn chung và bữa ǎn của người nhiều tuổi trong đó:
+  món salát chủ yếu để cung cấp rau nguồn vìtamin, chất khoáng, chất xơ cho cơ thể. Trong món salát cô kèm theo dầu ǎn, vừng lạc để chế biến ra các món nộm hoặc các món salát hỗn hợp nhiều loại rau, củ, quả khác.
+  món chủ lực chủ yếu cung cấp chất đạm và chất béo bao gồm thịt các loại cá và thủy sản, đậu phụ và đậu các loại. Các món ǎn này có thể làm riêng từng loại như thịt kho, thít gà luộc, cá rán, trứng tráng, đậu phụ kho, rán, hoặc hỗn hợp như giả ba ba có thị đậu phụ nhồi thịt, trứng đúc thịt, hoặc chế biến sẵn để ǎn dần như tương, muối vừng, lạc. Không nên bày vẽ ra quá nhiều món.
Khi có khách cũng chỉ nên làm 2 món chủ lực này.
+  món ǎn cung cấp nǎng lượng chủ yếu là chất bột, món chính là cơm. Cơm trắng hoặc cơm trộn ngô, trộn đậu xanh, đậu đen, trộn khoai có vùng còn trộn cám. Cơm cám rất bổ, và rất ngon, rất béo. Ngoài cơm có thể ǎn bánh mì (ở thành phố), ǎn ngô, mèn mén ở vùng đồng bào thiểu số chuyên trồng ngô hoặc ǎn khoai, đặc biệt là khoai sọ chấm muối vừng rất phù hợp với người nhiều tuổi
+  món canh cung cấp nước và các chất dinh dưỡng bổ sung cho cơ thể. Từ nước rau, canh suông, canh rau muống, tương gừng, đến canh cá, canh giò, canh thịt. Những món canh chua rất được ưa thích trong mùa hè và những món canh dưa với lạc, với cá, với thịt rất được ưa thích trong mùa đông.
+  đồ uống, nhớ ǎn cần đi đôi với uống, uống trước, trong và sau bữa ǎn đối với người nhiều tuổi, tránh dùng rượu. Chỉ cần nước trắng, nước chè và các món canh trong bữa ǎn.
- Chú ý đám bảo vệ sinh trong quá trình nấu nướng. Họa từ mồm ra và bệnh từ mồm vào. Thức ǎn không được trở thành nguồn gây bệnh.
4. Sử dụng hợp lý một số thực phẩm dùng cho người cao tuổi.
- Gạo: tốt nhất là ǎn gạo lức, gạo toàn phận nhưng nên đã bóc cám riêng ra cho gạo mềm dễ nhai. Khi nấu trộn với cám đã bóc ra, cơm cám này ǎn với muối vừng rất béo và rất ngon. Đây là cách ǎn thông minh của nhân dân vùng Giao Thủy Nam Hà.
Gạo lức la loại gạo đặc biệt dành cho các cụ có điều kiện, có nhiều thời giờ, còn bình thường chỉ cần chọn gạo dẻo, không mốc và không xát quá trắng.
- Khoai củ các loại: người cao tuổi nên ǎn rút bớt cơm và thay vào đó nên ǎn nhiều loại khoai. Khoai có khối lượng lớn gây cảm giác no nhưng cho ít nǎng lượng không gây béo mà lại có nhiều chất xơ giúp chống táo bón, giúp thải cholesterol thừa và đề phòng ung thư đại tràng.
- Đậu tương (đậu nành): đậu các loại có giá trị dinh dưỡng rất cao, giàu chất đạm. Riêng đậu tương còn có thêm nhiều axit béo không no rất quý, cần khuyến khích trồng ở mọi vùng và chế biến đậu tương ra nhiều loại thức ǎn.
+ Làm tương: tương cà gia bản, tương không phải chỉ là một loại nước chấm ngon (tương Bần), tương Cự Đà. Tương còn được coi như một món ǎn chế biến sẵn ở nhiều vùng quê. Trong bữa ǎn, múc ra một bát tương to, mọi người rưới tương án với cơm.
+ Đậu phụ, cháo.
+ Sữa đậu nành, sữa chua từ đậu nành: sử dụng nhiều loại đậu, đậu xanh, đậu đỏ, đậu đen, đậu trắng vào chế biến món ǎn và ngâm giá đỗ.
- Lạc, vừng: lạc, vừng đều giàu chất đạm, chất béo, nhiều axit béo không no. Nên chế biến sẵn một ìọ nhỏ vừng, lạc để ǎn dần bổ sung vào bữa ǎn trong vòng 1 tuần.
- Rau: bữa nào cũng cần có món rau, đặc biệt là rau xanh cò chứa nhiều b-proten kể cả trong các bữa tiệc cũng không nền chỉ nghĩ đến. thịt cá, giò, chả, mà quên rau.
- Quả chín: rất quý nhất là với người nhiều tuổi. Nguồn cung cấp nhiều vitamin và nhất khoáng, nhiều chất chống oxy hóa. Cần gây thành tập tục có quả tráng miệng sau bữa ǎn.
Rau quả giúp con người tǎng sức khỏe, đẩy lùi bệnh tật.
"Hàng ngày quả chí rau xanh
Cũng như thày thuốc đứng canh bên mình! "
- Thịt, cá: mỗi tuần lễ tối thiểu có 3 bữa cá, thịt tùy theo khả nǎng. Bình quân đầu người nhiều tuổi 1 kg/tháng.
- Trứng: là món ǎn có giá trị dinh dưỡng cao nhưng không phải cứ ǎn nhiều trứng là tốt. Đối với người khỏe mạnh mỗi tuần cũng không nên ǎn quá 6 quả vì ở trứng có nhiều cholesterol. Đối với người nhiều tuổi vừa trải qua những bệnh làm cơ thể gầy sút nhiều nếu không có phản chỉ định của thày thuốc, có thể ǎn 3 quả trứng một tuần.
Không nên cho những người có triệu chứng của bệnh thiếu máu tim, rối loạn tuần hoàn não ǎn trứng. Tốt nhất khi ǎn trứng nên kèm theo ǎn sữa vì trọng sữa có nhiều lexitin có thể trung hòa tác dụng cửa cholesterol.
- Sữa: dân ta chưa có tập tục dùng sữa. Nhưng vì sữa rất bổ nên cần có kế hoạch phát triển ngành nuôi bò sữa, nuôi trâu sữa, nuôi dê lấy sữa và sản xuất sữa đậu nành. Đối với người nhiều tuổi ǎn sữa rất bổ và dễ tiêu. Đặc biệt sữa chua vừa bổ vừa có tác dụng điều hòa hoạt động của bộ máy tiêu hóa. Nếu có điều kiện mỗi ngày các cụ nên ǎn một cốc sữa chua.
- Mật ong: mật ong có rất nhiều tác dụng đối với cơ thể. Trong điều trị học mật ong được sử dụng có kết quả tốt trong các bệnh viêm, loét dạ dày, tá tràng, các trạng thái suy yếu gan, thần kinh. Nhưng người nhiều tuổi có đặc điểm giảm mức chịu đựng đối với chất ngọt vì thế người nhiều tuổi không được ǎn quá 20g đường một ngày trong đó có tính cá mật ong.
- Mắm: mỗi địa phương Việt Nam đều có những loại mắm riêng được dân rất ưa thích. Đối với người nhiều tuổi tuy mắm rất ngon nhưng không nên ǎn thường xuyên và mỗi lần ǎn cũng nên dùng ít thối vì. lượng muối NaCl trong mắm rất cao, không thích hợp với cơ thể người có tuổi.
- Muối: Đã co nhiều công trình nghiên cứu và các cuộc điều tra dịch tễ học dinh dưỡng ở thực địa về mối liên quan không thể chối cãi giữa mức tiêu thủ muối ǎn với mức độ thường gặp bệnh huyết áp cao. Theo Freiss (1976) thì:
+ Dưới 250mg muối/người/ngày: không gặp huyết áp cao trong nhóm dân cư.
+ Từ 250mmg đến 1600mg muối/người/ngày: rất ít gặp huyết áp cao.
+ Từ 1,6 đến 8g muối/người/ngày: số người cớ huyết áp cao trong nhóm dân cư lên đến 15%.
+ Với mức tiêu thụ muối trên 8g muối/người/ngày: số người huyết áp cao có thể lên tới 30% tổng số người dân trong nhóm dân cư.
 hai thực tế thường được các tác giả nghiên cứu về muối ǎn và huyết áp nhắc đến: + Những người bộ lạc Yanamamo ở vùng biên giới Venezuela và Brasil sống bằng nghề trồng chuối để ǎn quả thỉnh thoảng ǎn thêm sản phẩm sǎn bắn và đánh cá, họ không ǎn muối, không có huyết áp cao và huyết áp cũng không tǎng theo tuổi.
+ Người Nhật Bản những nǎm 1950 tiêu thụ trung bình 20g muối/ngày.
Cá biệt có người ǎn tới 50g. Trong thời gian này, Nhật Bản là nước có nhiều người mắc bệnh huyết áp cao nhất (50% những người từ 50 tuổi trở lên) có nhiều người bị tai biến mạch não với tỷ lệ tử vong cao nhất (25% tổng số tử vong). Trước tình hình này Nhật Bản đã tiến hành giáo dục, vận động quần chúng giảm lượng muối tiêu thụ hàng ngày xuống dưới 10 gam và thấp hơn nữa. Nǎm 1981, tại hội nghị chuyên đề về tai biến mạch não (TBMN)  Châu á và Thái Bình Dương lần thứ nhất đại diện Nhật thông báo: số người bị chảy máu não giảm 40%, tắc mạch não giảm 24% số người chết vì TBMN giảm. Trong 52 nước tham dự hội nghị, Nhật từ hàng thứ 1 xuống hàng thứ 16 về tử vong do TBMN.
- Rượu: đối với người trẻ, khỏe mạnh, cơ thể có thể chuyển hóa rượu tạo ra nǎng lượng, 1g rượu nguyên chất cho 7 cao với điều kiện rượu uống vào trong 24 giờ không quá 100g và uống rải ra nhiều lần trong ngày.
Khác với thức ǎn thường, rượu được hấp thu rất nhanh. Đến đoạn đầu của ruột non 80% lượng rượu uống vào đã vào đến máu và từ đó đến tất cả tổ chức, ,thiều nhất và lâu nhất ở não và ở gan.
Người có tuổi thường có nhiều nhược điểm về sức khỏe, huyết áp cao, xơ mỡ động mạch, thiếu máu tim, rối loạn tuần hoàn não, chức nǎng thận, gan bị suy yếu thường gặp bệnh đái tháo đường. Những nhược điểm này là tiền đề của nhiều tai biến như tai biến mạch não, nhồi máu cơ tim.
Cho nên, đối với người có tuổi, rượu, kể cả rượu thuốc là một đồ uống nên tránh sử dụng đều đặn hàng ngày. Đối với người có tuổi khỏe mạnh, rượu nhẹ loại lên men như rượu vang, bia dùng trong những ngày vui có thể cho phép dùng với liều nhỏ.
Con người tạo ra thức ǎn, nhưng cũng có thể nói thức ǎn tạo ra con người. "Hãy nói cho tôi biết anh ǎn như thế nào, tôi sẽ cho anh biết anh là ai". Khi được hết cụ thể về tình hình ǎn uống của một người, ta có thể đoán biết những điều khá cơ bản về người ấy (sức khỏe, nề nếp sinh hoạt, tính tình, khả nǎng lao động, triển vọng sức khỏe, bệnh tật, sống lâu hay chết sớm).
Những điểm cơ bản về dinh dưỡng cho người cao tuổi, không chỉ là những điều cần thiết áp dụng cho lứa tuổi này, mà còn là những điều bổ ích cho đối tượng trưởng thành cần lưu ý để có một tuổi già khỏe mạnh, hữu ích và hạnh phúc.