2018-01-28

các rối loạn hoạt động bản năng

CÁC RỐI LOẠN HOẠT ĐỘNG BẢN NĂNG

MỤC TIÊU HỌC TẬP
1. Phát hiện được các triệu chứng rối loạn hoạt động bản năng.
2. Chẩn đoán được một số bệnh thường gặp.
3. Kê được đơn thuốc, phối hợp được thuốc trên người bệnh. Hướng dẫn được người nhà và bệnh nhân sử dụng thuốc và quản lý ngoại trú.
4. Giáo dục được cho bệnh nhân và người nhà về chăm sóc sức khoẻ tâm thần.

ĐẠI CƯƠNG
1. Khái niêm
- Hoạt động bản năng là hoạt động không có ý thức, xuất hiện như những phản xạ không điều kiện bẩm sinh.
- Hoạt động bản năng có tác dụng duy trì đời sống sinh vật, có thể chi phối cả hành vi và tác phong của con người.
2. Phân loại
- Những hành vi xung động: xuất hiện đột ngột không duyên cớ, thường gặp là xung động phân liệt, xung động động kinh, xung động trầm cảm.
- Những xung động bản năng: xuất hiện theo quá trình (đầu tiên bản năng nổi lên mãnh liệt, bệnh nhân có đấu tranh chống lại sự thúc dục của bản năng, dần bản năng chiếm ưu thế, bệnh nhân thực hiện mọi yêu cầu của bản năng.
- Xung động bản năng thường có tính chất chu kỳ.
- Xung động bản năng gặp trong bệnh tâm thần phân liệt, loạn thần tuổi già, động kinh…

RỐI LOẠN ĂN UỐNG
1. Lâm sàng
- Không ăn: gặp trong tâm thần phân liệt, trầm cảm
- Chán ăn: nữ giới, tuổi dậy thì (chán ăn tâm thần)
- Thèm ăn
- Ăn vật bẩn
- Thèm uống
- Cơn thèm rượu
Theo ICD 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi, các rối loạn ăn uống nằm trong chương F50-59

CHÁN ĂN TÂM THẦN
1. Đại cương
- Đặc trưng bằng sút cân có dụng ý do bệnh nhân gây ra và hoặc duy trì
- Bệnh phổ biến ở nữ, trẻ tuổi
- Thường khởi phát 15-19 tuổi
- Là rối loạn nặng, có mối quan hệ với các rối loạn ám ảnh cưỡng bức, trầm cảm và có nguy cơ tự sát cao
- Bệnh dễ nhận thấy bởi thầy thuốc tâm thần do những nét đặc trưng về lâm sàng và tiền sử
- Nguyên nhân còn chưa rõ ràng
2. Nguyên tắc chẩn đoán
- Cân năng cơ thể duy trì ít nhất 15% thấp Hơn cân nặng phải có (hoặc là giảm cân nặng, hoặc chưa bao giờ đạt tới).
- Sút cân tự gây ra bởi tránh “các thức ăn gây béo” và do một hoặc nhiều hơn các biện pháp sau: tự gây nôn, dùng thuốc tẩy, luyện tập quá mức, dùng thuốc làm ăn mất ngon và thuốc lợi tiểu.
- Hình ảnh thân thể bị méo mó dưới dạng một bệnh lý tâm thần đặc hiệu do sợ béo dai dẳng như một ý tưởng xâm phạm, quá đáng và bệnh nhân tự đặt một ngưỡng cân nặng thấp cho mình.
- Một rối loạn nội tiết lan toả bao gồm trục dưới đồi- tuyến yên- tuyến sinh dục biểu hiện ở phụ nữ là mất kinh và ở nam giới là mất thích thú và mất khả năng tình dục ( một ngoại lệ rõ rệt là chảy máu âm đạo kéo dài ở phụ nữ chán ăn tâm thần do dùng liệu pháp hormon thay thế, phổ biến nhất là dùng thuốc tránh thai).
- Nếu bắt đầu trước tuổi dậy thì, thì các hiện tượng kế tiếp của thời kỳ dậy thì bị chậm hay ngừng lại ( ngừng lớn, ở con gái vú không phát triển và mất kinh nguyệt nguyên phát, ở con trai bộ phận sinh dục vẫn như trẻ con).
3. Chẩn đoán phân biệt
- Triệu chứng trầm cảm
- Các triệu chứng ám ảnh và hội chứng mệt mỏi mãn tính kết hợp, cũng như các nét rối loạn nhân cách, làm cho sự phân biệt khó khăn.
- Các nguyên nhân cơ thể của sút cân ở bệnh nhân trẻ như hội chứng crohn, hội chứng khó hấp thu, các nguyên nhân gây suy nhược mãn tính hoặc u não… phải được nghĩ đến để chẩn đoán phân biệt.
4. Điều trị
- Nguyên tắc chung:
+ Tạo cho bệnh nhân có sự tin tưởng để hợp tác với thầy thuốc .
+ Phục hồi cân nặng cơ thể về mức bình thường.
+ Liệu pháp tâm lý cá nhân và liệu pháp gia đình.
+ Trong trường hợp vô kinh chỉ định điều trị nội tiết là cần thiết.
+ Cần cho bệnh nhân nhập viện vì những biến chứng nguy hiểm (mất nước, rối loạn điện giải, suy kiệt…)
- Điều trị cụ thể:
Chán ăn tâm thần thường phối hợp trầm cảm với những xung động ám ảnh, nên thuốc chống trầm cảm cũ và mới được chỉ định.
Thuốc chống trầm cảm 3 vòng: Amitriptyline
Thuốc chống trầm cảm mới (SSRI - ức chế chọn lọc serotonine): sertraline (zoloft), fluoxetine (prozac), paroxetine (paxil).
5. Tiên lượng và biến chứng
- Tiên lượng tốt nếu được phát hiện sớm
- Biến chứng: rối loạn nội tiết, rối loạn điện giải, mất nước, suy kiệt…
6. Phòng bệnh
- Rèn luyện nhân cách ngay từ khi còn nhỏ
- Dinh dưỡng tốt
- Môi trường sống lành mạnh

RỐI LOẠN GIẤC NGỦ
1. Đại cương
- Khái niệm về giấc ngủ: ngủ là một trạng thái sinh lý bình thường của cơ thể có tính chất chu kỳ ngày đêm, trong đó toàn bộ cơ thể được nghỉ ngơi, tạm ngừng hoạt động tri giác và ý thức, các cơ bắp giãn mềm, các hoạt động hô hấp, tuần hoàn chậm lại.
- Rối loạn giấc ngủ không thực tổn nhằm chỉ các rối loạn giấc ngủ liên quan đến các nhân tố tâm sinh. Thường các nguyên nhân cảm xúc được coi là nhân tố nguyên phát: rối loạn trầm cảm, hưng cảm, phân liệt cảm xúc hoặc các rối loạn liên quan
đến stress… Rối loạn giấc ngủ, trong đó rối loạn ưu thế về số lượng, chất lượng và thời gian ngủ.
- Theo ICD 10 năm 1992 rối loạn giấc ngủ không thực tổn được biệt định F51 (F51.0-F51.9)
- Khi mất ngủ kéo dài có thể dẫn đến suy nhược nặng và nguy cơ tử vong có thể xảy ra do sự suy giảm trầm trọng khả năng điều hoà nhiệt độ của cơ thể.
- Mất ngủ mãn tính làm giảm chất lượng cuộc sống, người bệnh mệt mỏi, giảm tập trung chú ý, giảm trí nhớ, rối loạn nhận thức, ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống hàng ngày.
- Rối loạn giấc ngủ là rối loạn chu kỳ ngủ trong đêm, thường liên quan đến giấc ngủ có REM, xảy ra ở những giai đoạn sớm của giấc ngủ, thường gặp đi trong giấc ngủ, hoảng sợ khi ngủ, ác mộng.
2. Biểu hiện lâm sàng
- Mất ngủ: là một trạng thái không thoả mãn về mặt số lượng hoặc chất lượng của giấc ngủ tồn tại trong một thời gian dài (ít nhất là một tháng).
- Ngủ nhiều không thực tổn: là một trạng thái ngủ ngày quá mức và có những cơn ngủ (mà không giải thích được bởi tình trạng thiếu ngủ) hay một trạng thái chuyển tiếp kéo dài quá mức từ lúc mới thức sang trạng thái tỉnh táo hoàn toàn.
- Rối loạn nhịp thức ngủ không thực tổn: là thiếu tính đồng bộ giữa nhịp thức ngủ của cá nhân và nhịp thức ngủ mong muốn đối với môi trường
- Đi trong giấc ngủ: là một trạng thái biến đổi ý thức, trong đó hiện tượng thức và ngủ kết hợp nhau, thường xảy ra trong phần ba đầu giấc ngủ đêm.
- Hoảng sợ khi ngủ: là những cơn hoảng sợ và sợ hãi tột độ về ban đêm
- Ác mộng
3. Nguyên tắc chẩn đoán mất ngủ không thực tổn
- Những than phiền khó đi vào giấc ngủ hoặc chất lượng ngủ kém.
- Rối loạn giấc ngủ xảy ra ít nhất 3 lần trong 1 tuần trong thời gian ít nhất một tháng.
- Có sự bận tâm về giấc ngủ và lo lắng quá mức về hậu quả ban đêm và ban ngày của nó.
- Số lượng và hoặc chất lượng giấc ngủ không thoả mãn gây ra đau khổ lớn hoặc gây trở ngại hoạt động xã hội và nghề nghiệp.
Đi trong lúc ngủ (chứng miên hành) (Sleep Walking) (F51.3).
Là một tình trạng biến đổi ý thức, trong đó hiện tượng  ngủ và thức kết hợp nhau.
Nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán:
- Triệu chứng ưu thế là một hoặc nhiều cơn đứng dậy, đi khỏi giường, đi lại, xảy ra trong phần ba đầu của giấc  ngủ đêm.
- Trong cơn, người bệnh có bộ mặt ngây dại, cố định, không đáp ứng được với người khác muốn thay đổi trạng thái hoặc muốn tiếp xúc với họ, và khó khăn lắm mới thức tỉnh được bệnh nhân.
- Khi thức dậy (hoặc sau cơn) bệnh nhân không còn nhớ được cơn.
Cơn miên hành
- Sau cơn không có suy giảm gì về tâm thần và hành vi, mặc dù có thể có lúc ban đầu một thời kỳ lú lẫn và mất định hướng ngắn.
- Không có bằng chứng của một rối loạn tâm thần thực tổn như mất trí, động kinh.
Chứng miên hành cần phân biệt với cơn động kinh tâm thần vận động và cơn trốn nhà phân ly. Cơn động kinh tâm thần vận động ít xảy ra ban đêm. Trong cơn động kinh, bệnh nhân hoàn toàn không đáp ứng với kích thích môi trường, và có các động tác định hình phổ biến như nuốt và xoa tay. Điện não đồ có sóng động kinh. Trong trốn nhà phân ly, các cơn dài hơn nhiều, trong cơn bệnh nhân tỉnh táo, có khả năng làm được các hành vi phức tạp và có mục đích; cơn điển hình chỉ xảy ra bắt đầu vào các giờ thức giấc.
Hoảng sợ khi ngủ (Sleep Terrors) (F51.4)
Là những cơn hoảng sợ và sợ hãi tột độ về ban đêm, kết hợp với phát âm to, vận động mạnh, và hoạt động thần kinh tự trị tăng cường.
Nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán:
- Triệu chứng ưu thế là một hay nhiều cơn thức giấc, bắt đầu bằng tiếng kêu thét, hoảng sợ, và đặc trưng bằng lo âu nhiều, cử động cơ thể, tăng hoạt động thần kinh tự trị như mạch nhanh, thở gấp, đồng tử giãn, vã mồ hôi.
- Cơn tái diễn điển hình kéo dài 1 – 10 phút và thường xảy ra phần ba đầu của giấc ngủ đêm.
- Không đáp ứng đối với những tác động của người khác lên hiện tượng hoảng sợ khi ngủ, và những tác động này hầu như gây ra mất định hướng cùng với động tác định hình trong vài phút.
Cơn hoảng sợ khi ngủ
- Nhớ lại sự kiện nếu có, chỉ tối thiểu vào một vài hình ảnh tâm thần rời rạc.
- Không có bằng chứng về một rối loạn cơ thể, như u não, động kinh.
Cơn hoảng sợ khi ngủ cần phân biệt với ác mộng. Trong ác mộng, chủ yếu là “giấc mơ xấu” với tiếng kêu và vận động cơ thể có giới hạn. Trong cơn hoảng sợ khi ngủ, ác mộng xảy ra ở bất kỳ thời gian nào trong đêm và bệnh nhân hoàn toàn tỉnh lại, nhớ lại chi tiết các sự kiện đã xảy ra.
Hoảng sợ khi ngủ và chứng miên hành có liên quan chặt chẽ với nhau, và cả hai trạng thái này đều có chung những đặc tính sinh lý bệnh học và lâm sàng. Do vậy, gần đây hai trạng thái này được coi là thành phần của cùng một đơn thể bệnh liên tục.
Ác mộng (Nightmares) (F51.5)
Nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán:
- Thức dậy trong giấc ngủ đêm hoặc giấc ngủ trưa và kể lại chi tiết, đầy đủ các giấc mơ đầy đe dọa đến sự an toàn tính mạng, đến giá trị bản thân; thức giấc có thể xảy ra bất kỳ thời gian nào trong lúc ngủ đêm, điển hình là nữa sau giấc ngủ đêm.
- Vào lúc thức giấc khỏi giấc mơ đe dọa, bệnh nhân nhanh chóng trở nên nhanh nhẹn và định hướng được.
- Bản thân nhận cảm giấc mơ, và rối loạn do hậu quả của giấc ngủ gây ra đau buồn rõ rệt đối với bệnh nhân.
Phân biệt ác mộng với hoảng sợ ban đêm.
4. Điều trị
- Tâm lý
+ Chỉ đi ngủ khi buồn ngủ, tập thức ngủ đúng giờ
+ Hàng sáng phải thức dậy vào một giờ nhất định
+ Không dùng cà phê, thuốc lá, rượu.
+ Thiết lập chế độ tập thể dục hàng ngày
+ Tập thư giãn luyện tập
- Hoá dược
+ Thuốc giải lo âu benzodiazepine: seduxen, lexomil …
+ Thuốc chống trầm cảm: chống trầm cảm 3 vòng (amitriptylin), chống trầm cảm mới (mirtazapine)

RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TÌNH DỤC
1. Đại cương
- Hoạt động tình dục bình thường ở người chia làm 4 giai đoạn: kích thích, hưng phấn, cực khoái, thoái trào.
- Hoạt động tình dục là quá trình liên quan đến sự tương tác phức tạp giữa tâm lý và cơ thể.
- Rối loạn chức năng tình dục khi mà người bệnh không đáp ứng được tình dục, hoặc không thể tham gia vào quan hệ tình dục được như mong muốn: thất bại trong đáp ứng sinh lý tình dục, khó khăn trong việc đạt cực khoái, hoặc cực khoái xuất hiện quá sớm.
- Rối loạn chức năng tình dục ở nam phần lớn phàn nàn là bất lực như rối loạn chức năng cương cứng và rối loạn xuất tinh. Còn ở nữ thường phàn nàn về chất lượng hoạt động tình dục như lãnh cảm, thiếu thích thú và không cảm thấy thoải mái khi giao hợp.
- Rối loạn chức năng tình dục thường liên quan đến nhân tố tâm lý hoặc cơ thể, hoặc cả hai kết hợp.
- Rối loạn chức tình dục là do ảnh hưởng của cơ thể và các yếu tố tâm thần, yếu tố thần kinh, thể lực.
2. Lâm sàng các hình thái rối loạn chức năng tình dục không thực tổn
- Thiếu hoặc mất ham muốn tình dục: đây là tình trạng giảm hoặc không mong muốn tình dục với người khác giới.
- Ghét sợ và thiếu thích thú tình dục: quan hệ tình dục kèm theo cảm giác bị ức chế nặng nề, gây ra sợ hãi, lo âu để tránh né hoạt động tình dục.
- Thất bại trong đáp ứng tình dục: ở nam giới chủ yếu là bất lực (rối loạn cương dương) và rối loạn xuất tinh. Ở nữ giới là khô âm đạo hoặc không tiết dịch.
- Loạn chức năng khoái dục.
- Rối loạn phóng tinh: bao gồm phóng tinh sớm hoặc không có khả năng xuất tinh.
- Co thắt âm đạo không thực tổn: co thắt các cơ xung quanh âm đạo, gây cản trở mở âm đạo
- Đau khi giao hợp không thực tổn.
- Xu hướng tình dục quá mức.
3. Điều trị
- Hoá dược: Các thuốc chống trầm cảm SSRI có tác dụng làm trì hoãn phóng tinh nên chỉ định trong những trường hợp phóng tinh sớm.
- Liệu pháp tâm lý nhằm giải quyết những trường hợp rối loạn chức năng tình dục liên quan đến các mối quan hệ cá nhân xung động hoặc hạn chế về nhận thức tình dục.
- Liệu pháp hành vi: áp dụng cho nhằm giải quyết những trường hợp rối loạn chức năng co thắt tình dục, đau khi giao hợp, thủ dâm…
- Liệu pháp xã hội.

Nếu quá khả năng đề nghị chuyển tuyến chuyên khoa điều trị tiếp