định nghĩa:
- Người xưa nhận thấy sự vật luôn luôn có mâu thuẫn nhưng thống
nhất với nhau, vận đông không ngừng, biến hóa để phát sinh, phát triển và tiêu
vong. Gọi đó là học thuyết Âm dương.
- Trong y học, học thuyết Âm dương quán triệt từ đầu đến cuối,
từ đơn giản đến phức tạp trong suốt quá trình cấu tạo cơ thể, sinh lý, bệnh lý,
chẩn đoán và các phương pháp chữa bệnh bằng YHCT
các quy luật cơ bản của
học thuyết âm dương
1. Âm dương đối lập:
Là sự mâu thuẫn, chế ước và đấu tranh giữa 2 mặt Âm dương.
Ví dụ: Ngày và đêm. Nước và lửa. Ức chế và hưng phấn…
2. Âm dương hỗ căn:
Là sự nương tựa lẫn nhau. Hai mặt âm dương tuy đối lập với nhau nhưng phải
nương tựa vào nhau mới tồn tại được và mới có ý nghĩa. Cả 2 mặt đều là quá
trình tích cực của sự vật, không thể đơn độc phát sinh, phát triển được.
Ví dụ: Đồng hóa và dị hóa. Hưng phấn và ức chế.
3. Âm dương tiêu trưởng:
Tiêu là sự mất đi, trưởng là sự phát triển, quy luật này nói lên sự vận động
không ngừng, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa 2 mặt Âm dương.
Ví dụ: Sự thay đổi của khí hậu 4 mùa trong năm.
- Sự vận động của 2 mặt Âm dương có tính chất giai đoạn, đến
1 mức độ nào đó sẽ chuyển hóa sang nhau gọi là “Âm cực sinh dương, dương cực
sinh âm, hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn”.
- Trong quá trình phát triển của bệnh tật, bệnh thuộc phần
dương có thể ảnh hưởng đến phần âm hoặc ngược lại.
4. Âm dương bình
hành: 2 mặt Âm dương tuy đối lập và vận động không ngừng nhưng luôn lặp lại
được thế quân bình, thăng bằng giữa 2 mặt Âm dương.
- Sự mất thăng bằng giữa 2 mặt âm dương biểu hiện cho sự
phát sinh ra bệnh tật trong cơ thể.
Tóm lại: 4 quy luật cơ bản của Âm dương nói lên sự mâu thuẫn,
thống nhất, vận động và nương tựa lẫn nhau của vật chất.
các phạm trù của học
thuyết âm dương
1. Sự tương đối và
tuyệt đối của 2 mặt Âm dương:
Sự đối lập giữa 2 mặt Âm dương là tuyệt đối nhưng trong điều
kiện cụ thể nào đó nó lại có tính chất tương đối.
Ví dụ:
- Hàn thuộc âm đối lập với nhiệt thuộc dương, nhưng lương là
mát thuộc âm đối lập với ôn là ấm thuộc dương.
- Sốt là thuộc dương, nếu sốt cao thuộc lý thì dùng thuốc
hàn, sốt nhẹ thuộc biểu dùng thuốc mát.
2. Trong âm có dương
và trong dương có âm:
Âm và dương nương tựa lẫn nhau cùng tồn tại, xen kẽ vào nhau
trong sự phát triển.
Ví dụ:
- Sự phân chia thời gian trong 1 ngày:
+ Ban ngày (6h-18h) thuộc dương, 6h-12h là phần dương của
dương; 12h-18h là phần âm của dương.
+ Ban đêm (18h-6h) thuộc âm, 18h-24h là phần âm của âm,
24h-6h là phần dương của âm.
- Tạng thuộc âm nhưng lại có phần âm, phần dương.
3. Bản chất và hiện
tượng:
- Thông thường bản chất phù hợp với hiện tượng, khi chữa bệnh
thì chữa vào bản chất bệnh: Bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc
hàn.
- Hiện tượng chân giả: Bản chất không phù hợp với hiện tượng,
cần chẩn đoán đúng bản chất để dùng thuốc chữa đúng nguyên nhân.
Ví dụ:
- Bệnh truyền nhiễm gây sốt cao (chân nhiệt) do nhiễm độc thần
kinh gây trụy mạch ngoại biên làm chân tay lạnh, ra mồ hôi lạnh (giả hàn) phải
dùng thuốc mát lạnh để chữa.
- Bệnh ỉa chảy do lạnh (chân hàn) do mất nước, mất điện giải
gây nhiễm độc thần kinh làm co giật, sốt (giả nhiệt) phải dùng thuốc ấm nóng để
chữa.
hình minh họa của học
thuyết âm dương
Các quy luật Âm Dương và các phạm trù của nó được thể hiện bằng
hình vẽ minh họa bên cạnh.
Là hình tròn có 2 hình cong chia diện tích làm 2 phần bằng
nhau, 1 phần là Âm, 1 phần là Dương. Trong phần âm có nhân dương, trong phần
dương có nhân âm.
ứng dụng của học thuyết
âm dương trong y học
1. Về cấu tạo cơ thể
và sinh lý:
- Âm: Tạng, huyết, bụng, trong, dưới, kinh âm…
- Dương: Phủ, khí, lưng, ngoài, trên, kinh dương…
- Tạng thuộc âm nhưng do tính chất trong âm có dương nên có
Phế âm, Phế khí, Thận âm, Thận dương…
- Phủ thuộc dương nhưng vì trong dương có âm nên có Vị âm, Vị
hỏa…
- Vật chất dinh dưỡng thuộc âm, cơ năng hoạt động thuộc
dương.
2. Về quá trình phát
sinh ra bệnh tật:
2.1. Bệnh tật phát
sinh do sự mất thăng bằng về Âm Dương:
- Thiên thắng:
+ Dương thắng gây chứng nhiệt: Sốt, khát nước, tiểu đỏ, táo
bón, mạch sác.
+ Âm thắng gây chứng hàn: Người lạnh, chân tay lạnh, tiểu
trong, ỉa lỏng, mạch trầm…
- Thiên suy:
+ Dương hư: Lão suy, HC hưng phấn giảm.
+ Âm hư: Mất nước, mất điện giải, ức chế giảm
2.2. Trong quá trình
phát triển của bệnh, tính chất của bệnh còn chuyển hóa lẫn nhau giữa 2 mặt Âm
Dương:
- Dương thắng tắc âm bệnh: Sốt cao kéo dài gây mất nước.
- Âm thắng tắc dương bệnh: Ỉa chảy kéo dài mất nước, điện giải
làm nhiễm độc thần kinh gây sốt, co giật thoát dương.
2.3. Sự mất thăng bằng
Âm Dương gây ra các chứng bệnh ở những vị trí khác nhau của cơ thể tùy theo
vị trí đó ở phần âm hay dương.
- Dương thịnh sinh ngoại nhiệt vì phần dương thuộc biểu, thuộc
nhiệt gây sốt, người nóng, chân tay nóng.
- Âm thịnh sinh nội hàn vì phần âm thuộc lý, thuộc hàn gây
người lạnh.sợ lạnh, ỉa lỏng, tiểu trong.
- Âm hư sinh nội nhiệt: Mất nước, mất tân dịch gây khát nước,
miệng họng khô, tiểu đỏ, táo bón…
- Dương hư sinh ngoại hàn vì phần dương khí ở bên ngoài bị
giảm sút gây sợ lạnh, chân tay lạnh….
3.Chẩn đoán bệnh
3.1. Dựa vào 4 phương
pháp khám bệnh: Vọng, văn, vấn, thiết để khai thác triệu chứng thuộc hàn
hay nhiệt, hư hay thực của tạng phủ, kinh lạc nào.
3.2. Dựa vào 8 cương
lĩnh để đánh giá vị trí nông sâu, tính chất của bệnh, tình trạng của người
bệnh và xu thế chung của bệnh.
- Đó là: Biểu lý, hàn nhiệt, hư thực, âm dương.
- Biểu, thực, nhiệt thuộc dương.
- Lý, hư, hàn thuộc âm.
3.3. Dựa vào tứ chẩn
để khai thác triệu chứng và căn cứ vào bát cương bệnh tật được quy thành các hội
chứng thiên thắng hay thiên suy về âm dương của các tạng phủ , kinh lạc…
4. Về chữa bệnh và
các phương pháp chữa bệnh:
4.1. Chữa bệnh là điều
hòa lại sự mất thăng bằng về Âm Dương của cơ thể tùy theo tình trạng hư thực,
hàn nhiệt của bệnh bằng các phương pháp khác nhau: Thuốc, châm cứu, xoa bóp,
khí công…
4.2. Về thuốc được
chia làm 2 loại:
- Thuốc lạnh, mát thuộc âm để chữa bệnh nhiệt thuộc dương.
- Thuốc nóng, ấm thuộc dương để chữa bệnh hàn thuộc âm.
4.3. Châm cứu:
- Bệnh hàn dùng cứu, bệnh nhiệt dùng châm.
- Bệnh hư thì bổ, bệnh thực thì tả.
- Theo nguyên tắc “Theo dương dẫn âm, theo âm dẫn dương”.
- Bệnh thuộc tạng (thuộc âm) thì dùng các huyệt Du sau lưng
(thuộc dương).
- Bệnh thuộc phủ (thuộc dương) thì dùng các huyệt Mộ ở ngực,
bụng (thuộc âm).