2015-10-06

xơ gan

Mục tiêu học tập
1.Nêu được các  nguyên nhân chính trong bệnh căn của xơ gan
2.Nêu được hình thái tổn thương đại thể và vi thể của xơ gan


I. ÐẠI CƯƠNG 

            Xơ gan là một bệnh tiến triển mạn tính, nặng, không hồi phục. Xơ gan có các đặc điểm:
            -Cấu trúc bình thường của gan đảo lộn, tổn thương toàn gan.
            - Tăng sinh xơ lan tỏa tạo thành các vách xơ.
            - Các tế bào gan bị tổn thương, thoái hóa, hoại tử và tái tạo thành các nốt gan tân tạo.
            Hình thái bệnh lý của xơ gan không do nguyên nhân quyết định. Các yếu tố gây bệnh khác nhau có thể tạo nên hình thái tổn thương như nhau. Trái lại cùng một yếu tố gây bệnh có thể phát triển những hình thái tổn thương theo chiều hướng khác nhau.
    Căn cứ vào kích thước các nốt gan tân tạo người ta chia xơ gan ra làm 2 loại:
- Xơ gan cục nhỏ: hầu hết các nốt gan tân tạo có đường kính dưới 3cm. Ví dụ như trong xơ gan do rượu.
- Xơ gan cục lớn: đa số các nốt gan tân tạo có đường kính trên 3 mm
Ví dụ xơ gan sau hoại tử.
 
Các nguyên nhân gây xơ gan bao gồm:
                        -Rượu 60-70%
                        -Viêm gan do virus 10%
                        -Bệnh đường mật 5-10 %
                        -Bệnh nhiễm sắc tố sắt tiên phát
                        -Bệnh Willson: hiếm
                        -Bệnh thiếu Alpha1- antrypsin: hiếm                                         
-Không rõ căn nguyên: 10-15%                                               

II. SINH BỆNH HỌC

            Rượu và các chất biến dưỡng của rượu có tác dụng độc với tế bào gan cũng như với các tế bào khác của cơ thể.
            Mỗi ngày uống trên 160 gam Ethanon trong 10-20 năm sẽ gây ra tổn thương nặng ở gan.
            Trong giai đoạn đầu rượu gây ra thoái hóa mỡ. Sau đó nếu tiếp tục uống ruợu, khoảng 10-15% người nghiện rượu bị xơ gan.Ngoài ra rượu còn có thể gây ra viêm gan do rượu.

1. Sinh bệnh học của gan thoái hóa mỡ
            Trong tế bào gan rượu có tác dụng:
            -Tăng tổng hợp acid béo
            -Giảm oxy hóa các acid béo trong ty lạp thể
            -Giảm vận chuyển các lipoprotein ra ngoài tế
bào gan. Do đó gây ứ đọng mỡ trong các tế bào gan.
2. Sinh bệnh học của xơ gan                   
                       
Do tác dụng của rượu,các tế bào gan thoái hóa,hoại tử.
Các tế bào gan còn lại tái tạo, hình thành các nốt gan
tân tạo. Ðồng thời quá trình xơ hóa tiến triển trong                         
toàn gan, tạo thành các vách xơ mảnh, vây quanh các nốt gan tân tạo, hình ảnh đặc trưng của xơ gan. Hiện nay người ta vẫn chưa biết rõ cơ chế của xơ hóa. Các tế bào gan thoái hóa, hoại tử , rượu và các chất biến dưỡng có thể là những kích thích gây xơ hóa.                         

III. GIẢI PHẪU BỆNH

            Trong giai đoạn đầu gan lớn, thường trên 2 kg, màu nâu vàng, dính mỡ. 
Sau nhiều năm gan trở nên teo nhỏ, màu nâu, rắn chắc, bờ sắc cạnh.Trên bề mặt của gan và khắp trong gan có nhiều nốt gan tái tạo, đa số có đường kính dưới 3 mm, vây quanh bởi các vách xơ mảnh.


 
 Tổn thương lan rộng toàn gan, cấu trúc bình thường của gan bị đảo lộn.
        Tổ chức xơ phát triển mạnh và lan tỏa, tạo thành các vách xơ chia cắt các tiểu thùy gan, nối liền tĩnh mạch trung tâm với khoảng cửa, cũng như giữa khoảng cửa với khoảng cửa.
            Các tế bào gan thoái hóa, hoại tử và tái tạo hình thành các nốt gan tân tạo bị vây quanh bởi những vách xơ. Trong những vách xơ này xâm nhiễm nhiều tế bào lymphocyte tăng sinh nhiều ống mật tân tạo.

IV. LÂM SÀNG

            xơ gan do rượu tiến triển chậm, âm thầm, không có triệu chứng lâm sàng trong nhiều năm.
            Trong giai đoạn gan thoái hóa mỡ, bilirubin và phosphates alkaline trong huyết thanh có thể tăng nhẹ.
            Xơ gan có thể biểu hiện bằng 2 hội chứng lâm sàng:
            -Hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa: Cổ trướng, tuần hoàn bàng hệ dưới da bụng, lách to, giãn tĩnh mạch thực quản, giãn tĩnh mạch trực tràng ( trĩ).
            -Hội chứng suy tế bào gan: suy nhược, chán ăn, sụt cân, các nốt nhện ở 1/2 trên thân mình, ban đỏ lòng bàn tay, giãn mạch, vàng da, phù chi dưới, rói loạn nội tiết.

            Bệnh nhân có thể chết do: Suy gan - hôn mê gan, hoặc xuất huyết tiêu hóa do vỡ tĩnh mạch thực quản, hoặc nhiễm trùng.