2015-10-06

ung thư phổi

 1.Hiểu và nêu được 3 nguyên nhân chính gây ung thư phổi.
2.Kể tên và mô tả 3 phương pháp chính để chẩn đoán ung thư phổi .
3.Mô tả đặc điểm vi thể của 5 típ mô bệnh học chính của ung thư phổi.


Nhiều tác giả coi ung thư phổi là một trong những vấn đề quan trọng nhất của ung thư học hiện đại. Tỷ lệ mắc ung thư phổi ngày càng tăng nhanh, trong vòng 30 năm qua, ung thư phổi đã tăng gấp 10 lần.
 Hiện nay ở Hoa kỳ mỗi năm ung thư phế quản nguyên phát gây bệnh ở 99.000 nam và 78.000 nữ; 86% số này tử vong trong vòng 5 năm sau khi chẩn đoán, làm cho ung thư này đứng hàng đầu về nguyên nhân gây tử vong trong ung thư ở cả nam và nữ.
ở Anh, năm 1991, ung thư phế quản là nguyên nhân tử vong của 22.000 bệnh nhân nam và 10.000 nữ. Như vậy, mỗi năm có khoảng 300/100.000 nam bị chết vì ung thư phổi, đây là tỷ lệ cao nhất thế giới.
 Ở Việt Nam, ung thư phế quản đã đứng hàng đầu ở nam, thứ ba ở nữ và tình hình này duy trì cho đến nay.
Ung thư phổi có quan hệ mật thiết với những yếu tố của ngoại cảnh vì đường thở trực tiếp mở ra môi trường bên ngoài.
Thông thường khái niệm ung thư phổi trùng với khái niệm ung thư phế quản vì tuyệt đại đa số trường hợp ung thư phổi phát sinh từ phế quản.
Ung thư phổi là một trong những loại ung thư có độ ác tính cao nhất, 90% bệnh nhân chết trong vòng 1 năm sau khi được chẩn đoán, dưới 10% sống được thêm từ 1-5 năm. Tuy nhiên, ung thư phổi là loại ung thư dễ phòng ngừa nhất.
Tuổi và giới:
Ung thư phổi chủ yếu  gặp ở người trên 40 tuổi, Nam gấp 10 lần nữ. Ngày nay ở các nước, tỷ lệ mắc ung thư phổi ở nữ có khuynh hướng tăng nhanh do số phụ nữ nghiện hút thuốc là ngày càng nhiều. Tử vong do ung thư phổi trên bệnh nhân nữ ở một số nước (Mỹ, Úc...) đã vượt quá ung thư vú.
            Căn nguyên chính của bệnh ung thư phổi hiện nay vẫn chưa hoàn toàn được rõ nhưng có nhiều yếu tố nguy cơ chính làm phát sinh ung thư phổi như:
Hút thuốc lá là nguyên nhân của trên 80% ung thư biểu mô phổi, thường là dạng vẩy hoặc loại tế bào nhỏ.
Vai trò sinh ung thư của thuốc lá đã được nhiều công trình khẳng định, đó là 3-4 Benzopyren. Nghiện càng nặng, thời gian nghiện càng lâu, khả năng sinh ung thư phổi càng lớn.
Tỷ lệ tử vong do ung thư phổi ở người nghiện thuốc lá cao hơn 10-15 lần người không nghiện thuốc lá. 
             Ở Mỹ, mỗi năm có vào khoảng 3000 người trưởng thành không hút thuốc bị tử vong do ung thư phổi bởi hít khói thuốc lá thụ động.
Nguy cơ mắc ung thư phổi ngày càng tăng theo quá trình công nghiệp hóa và ô nhiễm môi trường. Người ta nhất trí nhận định rằng ung thư phổi phát sinh nhiều hơn ở những nước có nền công nghiệp và giao thông vận tải phát triển. Nguyên nhân sinh ung thư là các chất tải công nghiệp như: naphtathy lamin, Hydrocarbon đa vòng thơm, hắc ín bay hơi.
Các chất như bụi Amian, Berylli khi bị hít vào phổi làm tăng khả năng mắc ung thư phổi, đặc biệt là màng phổi. Sự tiếp xúc với Niken, Crom, thạch tín góp phần làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
 Y học ngày nay đã xác nhận bức xạ có thể gây ung thư ở hầu như tất cả các cơ quan trong đó có ung thư phổi. Nguồn bức xạ tiếp xúc chính là nguồn bức xạ thiên nhiên, từ các tia vũ trụ, đất, vật liệu xây dựng, những nguồn do chính con người tạo ra trong chẩn đoán y học.. Nghiên cứu gần đây nhất cho biết bụi phóng xạ của uranium nghèo khi hít vào tích tụ ở phổi gây biến tính tế bào tạo nguy cơ ung thư.
            Ngoài các tác nhân gây bệnh kể trên, phải kể đến một số yếu tố hỗ trợ như:
 -Chế độ ăn ít hoa quả, rau tươi, thiếu vitamin A vitamin E, uống nhiều rượu.
 -Chấn thương xơ sẹo ở phổi, dày dính màng phổi, tổn thương lao, đặc biệt là viêm phế quản mạn tính, di truyền.
Chẩn đoán ung thư phế quản- phổi dựa vào lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh, các kỹ thuật xâm nhập và chẩn đoán tế bào -  mô bệnh học
- Triệu chứng hô hấp: Bao gồm những triệu chứng biểu hiện do khối u tiên phát gây ra ( ho, khái huyết, khó thở, đau ngực...) và các triệu chứng nói lên sự lan rộng của khối u trong lồng ngực (các triệu chứng chèn ép trung thất, hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên...).        
            - Triệu chứng hệ thống: Bao gồm các triệu chứng toàn thân (sốt, gầy.sút cân, mệt, kém ăn, mất ngủ...), hội chứng cận u.
            - Triệu chứng di căn xa: Ung thư phế quản- phổi thường di căn đến não, xương, gan, hạch.
            -Chụp X-quang phổi:           
             X- quang phổi vẫn là một phương pháp cơ bản để chẩn đoán ung thư phế quản và các phương pháp hiện đại chưa thay thế được.
            Chụp X- quang phổi chuẩn thẳng nghiêng được làm trước tiên, nó có giá trị để xác định vị trí của khối u.
            Tuy vậy, việc chẩn đoán ung thư phổi bằng chụp film X- quang thường chỉ phát hiện được bệnh ở giai đoạn muộn (giai đoạn II và III).
- Chụp cắt lớp điện toán (CT)
            + Chụp CT ra đời từ những năm 70. Bước đầu các tác giả thấy nếu so sánh với chụp thường thì kỹ thuật này đã tìm thêm được 30-40% các u nhỏ. Tuy vậy, chụp CT không xác định một cách chắc chắn tính chất của tổn thương như u lành, u ác.
- Chụp cộng hưởng từ hạt nhân ( MRI):
            MRI là một phương pháp làm hiện hình mới nhất và được coi là một cuộc cách mạng về kỹ thuật chẩn đoán. Kỹ thuật này không gây tổn thương cho người bệnh.         
            -Soi phế quản:          
            Qua ống soi mềm, có thể thực hiện các kỹ thuật để chẩn đoán tế bào học và mô bệnh học: sinh thiết phế quản, sinh thiết xuyên thành phế quản, chải rửa phế quản. ở Việt Nam, hiệu quả chẩn đoán ung thư phế quản bằng soi phế quản ống mềm đạt từ 68-75%.
             -Soi trung thất: Thông thường, soi trung thất thực hiện ngay trước phẫu thuật nhằm giảm tỷ lệ mở lồng ngực vô ích, giảm tỷ lệ tử vong trong phẫu thuật.
Là phương pháp xét nghiệm tế bào qua các phiến đồ lấy từ đờm, dịch rửa phế quản, dịch màng phổi, chất quét tổn thương qua soi phế quản, phiến đồ áp các mảnh sinh thiết hoặc bệnh phẩm phẫu thuật, chọc hút bằng kim nhỏ qua thành ngực. Ðây là phương pháp đơn giản, an toàn có độ chính xác tương đối cao 90-96%, rất phù hợp để chẩn đoán sàng lọc các u phổi.
Là vấn đề cực kỳ quan trọng. Tổ chức y tế thế giới cũng như Hiệp hội quốc tế chống ung thư bắt buộc phải định rõ típ mô bệnh học và giai đoạn lâm sàng TNM  để giúp cho việc vạch chiến lược điều trị và tiên lượng bệnh.
Việc phân loại mô bệnh học thường được làm trên bệnh phẩm  phẫu thuật sau khi đã được chẩn đoán (+) ung thư phổi về mặt tế bào học. 
Hầu hết việc chẩn đoán xác định ung thư phổi hiện nay ở nước ta cũng như trên thế giới phải dựa xét nghiệm tế bào- mô bệnh học.
Có thể gặp ung thư ở mọi nơi của cây phế quả, thường gặp ở phế quản gốc nhiều hơn phế quản ngọn, ở bên phải nhiều hơn bên trái, thùy đỉnh hay gặp hơn thùy đáy.

1.2 Hình thái:
        Khối u thường có hình khối tròn,
hình ovan, bờ nhẵn hoặc có múi, phân nhánh.
Thường u có kích thước từ 3-12cm. Ðối với những u có kích thước nhỏ
hơn 5cm, lòng khối u thường thuần nhất , ít có hoại tử ở trung tâm khối u.               
Ðối với những u có kích thước lớn hơn 5cm, trung tâm khối u thường  bị hoại tử. Khi chất hoại tử này bị loại ra ngoài (do ho khạc) để lại một hang mà X quang dễ nhầm với một hang lao hay một áp-xe.
            Ung thư phế quản bao giờ cũng đi kèm với viêm phế quản , giãn phế quản, giãn phế nang, viêm phổi, xơ hóa phổi.
              Tế bào ung thư có thể xuất phát từ bất kì thành phần nào của phế quản nhưng hay gặp nhất vẫn là ung thư biểu mô trụ. Ðể đơn giản người ta chia thành 5 nhóm chính (chiếm 90- 95%).
Hay gặp nhất (chiếm 30-40%).
Chúng thường ở ngoại vi và hay lan ra màng phổi. Tế bào u hình trụ hay hình khối vuông, nguyên sinh chất sẫm màu, nhân đều hay không
đều. Những  tế bào sắp xếp thành những hình giả
 tuyến, ống hoặc nhú, có thể chế tiết nhầy hoặc
không.                                                               

carcinoma)
         Chiếm khoảng 30-35%, thường gặp ở trung tâm, các phế quản lớn. chúng thường có các hình thái sau:                                                          

2.2.1.Biệt hóa rõ:
Các  tế bào vảy đa diện, có cầu nối như ở biểu bì hoặc có hiện tượng sừng hóa. Có thể thấy được  tế bào ung thư đã biến thành cầu sừng.  
        Với những đặc điểm  tế bào trung gian giữa
 biệt hóa rõ và biệt hóa kém.
2.2.3.Biệt hóa kém:                                              

             U đáp ứng đủ tiêu chuẩn của ung thư biểu mô tế bào dạng vảy nghĩa là có chất sừng và/ hoặc các cầu nối trong đó các đặc điểm này chỉ thấy ở từng phần, còn đại bộ phận thì không biệt hóa.
 (small cell carcinoma)
            Ðứng thứ ba, chiếm 15-20%, rất ác tính, thường chống chỉ định phẫu thuật.
Tế bào nhỏ, đồng dạng, thường lớn hơn tế bào lympho, có nhân đặc tròn hay bồ dục, chất chromatin khuếch tán, hạt nhân không nổi rõ và bào tương rất ít. Tế bào u có xu hướng xuất hiện phân cách nhau hoặc chỉ                                        

liên kết lỏng lẻo với chất đệm tối thiểu xen
vào.                                                                                                                
( Large cell carcinoma).
          Chiếm từ 5-10% các ung thư của phổi.
Là u biểu mô ác tính với nhân to, hạt nhân nổi rõ, bào tương nhiều và thường rìa tế bào xác định rõ. Tế bào u không có nét đặc trưng của tế bào dạng vảy, tế bào nhỏ hoặc ung hư biểu mô  tuyến

2.5. Ung thư biểu mô  tuyến- vảy (adeno-squamous cell carcinoma)
         Một ung thư cho thấy cả hai thành phần ung thư biểu mô dạng vảy và ung thư biểu mô

tuyến. Nói chung cách xử lý như ung thư biểu mô  tuyến.
            Mọi ung thư của phổi đều có khuynh hướng di căn mạnh, nhưng cao nhất ở loại
ung thư biểu mô tế bào nhỏ, thấp nhất ở ung thư biểu mô tế bào vảy
            Ung thư có thể lan tràn kế cận như xâm nhập các hạch trung thất, màng phổi,
màng tim. Di căn xa như: di căn gan, thượng  thận, thận, xương, lách, ruột, tuyến giáp, tuyến tiền liệt,  tinh hoàn, cột sống, não