2015-10-06

viêm nói chung

1- Trình bày được định nghĩa, các nguyên nhân và bản chất của viêm
2- Mô tả, giải thích được 4 giai đoạn của quá trình viêm và ý nghĩa của từng giai đoạn
3- Kể tên, phân tích được 7 loại viêm theo mô bệnh học và 3 loại viêm theo lâm sàng


I. ĐẠI CƯƠNG

Viêm (từ nguyên la tinh inflammare có nghĩa là lửa cháy và từ nguyên Hán có nghĩa là nóng) là một hiện tượng được nói đến từ thời cổ đại (niên kỷ 4 trước công nguyên), sau đó một thầy thuốc La mã đã ghi nhận 4 triệu chứng kinh điển của viêm: sưng, nóng, đỏ, đau. Virchow (1821-1902) lại xác nhận thêm một dấu hiệu thứ năm của viêm là: mất chức năng. Tuy nhiên suốt một thời gian dài nhiều thế kỷ, các nhà y học vẫn coi viêm như là một hiện tượng có hại đối với cơ thể. Mãi đến nhiều thập kỷ sau, với những nghiên cứu về kính hiển vi học, hóa sinh, miễn dịch học v.v.., khẳng định rằng: viêm là một phản ứng không mang tính chất đặc hiệu và hoàn toàn có lợi cho cơ thể.
         Từ đó, người ta đưa ra một định nghĩa của viêm như sau: Viêm là quá trình phản ứng tự vệ của cơ thể, của tổ chức và các thành phần dịch thể của cơ thể nhằm chống lại các tác nhân xâm nhập, biểu hiện chủ yếu là tại chỗ.
         Các hiện tượng kinh điển của viêm như: Sưng là do ứ đọng dịch phù viêm. Nóng và đỏ là do hiện tượng xung huyết, các mạch ứ đầy máu. Đau là do dịch phù và nhiều tác nhân gây viêm chèn ép mô và kích thích các đầu tận cùng thần kinh.
         Cần lưu ý phân biệt nhiễm khuẩn và viêm: Nhiễm khuẩn là hiện tượng hình thành do các tác nhân gây bệnh (vi khuẩn, virus, ký sinh trùng) có thể khu trú hoặc lan tỏa toàn thân. Ngược lại viêm là một quá trình điều chỉnh cân bằng nội môi. Như vậy, nhiễm khuẩn luôn kèm quá trình viêm, ngược lại, viêm không phải bao giờ cũng là hiện tượng nhiễm khuẩn.
Phản ứng viêm gây nên do nhiều tác nhân khác nhau nhưng đều làm thay đổi tính chất lý hóa của chất gian bào hoặc hoại tử tế bào... và có thể xếp vào các loại tác nhân chính như sau:
Đây là tác nhân phổ biến, do vi trùng, ký sinh trùng, virus.
- Cơ học: do đụng, dập vết thương, kể cả vết thương vô trùng.
- Nhiệt học: do bỏng nóng, lạnh.
- Bức xạ ion hóa.
 Gồm các chất hòa tan và không hòa tan.
 Do thiếu máu, chấn thương...
- Một số chất dạng bột, các phức hợp miễn dịch, các sản phẩm của ung thư.
 
Sau tổn thương ở mô, người ta có thể thấy một loạt các hiện tượng xảy ra nhằm đáp ứng, sửa chữa tổn thương này. Qua thí nghiệm, người ta có thể tóm tắt quá trình phản ứng viêm gồm 4 giai đoạn:
1. Giai đoạn khởi đầu: còn gọi là giai đoạn sinh hóa, thần kinh
Đây là giai đoạn giữa thời điểm của các tác nhân xâm nhập và khởi đầu của những biểu hiện xung huyết và đau.
1.1.1 Hiện tượng toan hóa nguyên phát: hiện tượng này xảy ra rất sớm và có liên quan đến việc sử dụng glycogen của tế bào và mô.Tại nơi tổn thương, các mạch ngoại vi co lại và tổn thương, dẫn đến lượng O2 tại vùng viêm bị hạ thấp, lượng CO2 tăng lên. Sự chuyển hóa glucose ở mô se îđi theo con đường kỵ khí và sản sinh ra nhiều sản phẩm acid (acid pyruvic, acid lactic)
C6H12O6  + 6O2   =        6CO2   + H2O  +  E
C6H12O6              =          3C3H6O3  (acid lactic)
Các sản phẩm acid này vừa có tác dụng làm tăng tính thấm thành mạch và làm độ PH vùng mô bị viêm hạ thấp 6,8 - 6
1.1.2 Hiện tượng toan hóa thứ phát: do tác động của viêm kéo dài, pH môi trường của mô tiếp tục giảm thấp xuống 5,3. Mặt khác các tế bào vùng viêm bị tổn thương không chuyển hóa hết các acid hữu cơ dẫn đến độ pH vùng mô càng hạ thấp xuống. Đồng thời, do các tế bào bị tổn thương, các túi tiêu thể (túi lysosom) nằm trong bào tương của tế bào cũng vị vỡ ra, giải phóng các men thủy phân, có thể tiêu hóa được các thành phần protein, lipid, và glucid, phân hóa các chất khác nhau ở vùng viêm thành các phần tử nhỏ, đặc biệt là phân giải các protein thành các chuỗi peptid và các acid hữu cơ gây giãn mạch và tăng tính thấm thành mạch, gọi chung là chất trung gian hoạt mạch. Các chất trung gian hoạt mạch và các acid hữu cơ có tác dụng gây giãn mạch và tăng tính thấm thành mạch rất mạnh, đồng thời tác động tới nhiều loại vi khuẩn, virus, ký sinh trùng vốn nhạy cảm với môi trường acid.
* Các amin hoạt mạch (vaso active amin), trong đó chủ yếu là histamin và serotonin.
* Các proteaza của huyết tương gồm:
+  Hệ kinin huyết tương (plasma kinin) gồm bradykinin, kallikrein tức là các polypeptid có 8-14 acid amin.
+  Hệ bổ thể (complement system) gồm C3a, C5a, C5b, C9.
+ Hệ đông máu và tiêu sợi huyết.
* Các thành phần của lysosome.
* Các thành phần tự do của dẫn chất oxygen.
* Các yếu tố hoạt hóa tiểu cầu (platelet activator factor).
* Các cytokine
+ Các amin hoạt mạch gồm histamin, serotonin là những sản phẩm trung gian xuất hiện sớm giai đoạn đầu; histamin là dẫn chất của histidin, một acid amin bình thường có ở bên trong nguyên sinh chất của tế bào. Khi tế bào thoái hóa, histidin bị khử carboxyl và giải phóng ra histamin, ngoài ra histamin còn nằm trong nguyên sinh chất của các dưỡng bào (mastocyte). Khi được giải phóng chúng gây giãn tiểu động mạch do tác động trực tiếp lên thụ thể H1 của các tế bào cơ trơn của tiểu động mạch, làm xung huyết, làm tăng tính thấm thành mạch và cũng tác động vào các thụ thể H1 của tế bào nội mạc mạch, làm co các tế bào nội mô, tạo nên các kẽ hở gian bào, đồng thời làm loãng chất ciment gắn giữa các tế bào nội mô. Serotonin cũng nằm trong các dưỡng bào, chúng cũng tác động giống như histamin, làm giãn mạch và tăng tính thấm.
+ Các proteaza của huyết tương gồm hệ kinin, hệ bổ thể và hệ đông máu. Cả 3 hệ này hoạt động liên quan với nhau, trong đó hệ bổ thể là quan trọng vì nó liên quan đến yếu tố hoạt mạch và hóa hướng động (chemotatic).
- Hệ kinin: gồm bradykinin, kallikrein. Chúng được phát động bởi yếu tố hageman nằm trong cục máu khi được tiếp xúc với chất hoạt mạch, chúng gây tăng tính thấm đồng thời gây hóa hướng động và sự kết dính của các bạch cầu.
- Hệ bổ thể: hệ này gồm 20 thành phần protein và có đậm độ cao trong huyết tương, hệ này rất quan trọng trong đáp ứng miễn dịch.
+ C3a gây tăng thấm huyết quản và có thể bị tách bởi proteaza của vi khuẩn.
+ C5a cũng gây tăng tính thấm, đặc biệt có hiện tượng hóa hướng động cao, C5a gây dính bạch cầu với tế bào nội mô.
+ C3b được nhận dạng rất nhanh bởi các đại thực bào, bạch cầu toan, bạch cầu trung tính.
+ C5b9 là chất cuối cùng, là phức hợp tấn công vào màng.
-Hệ đông máu: gồm một loạt các protein có trong huyết tương, có thể được hoạt hóa do yếu tố Hageman, bước cuối cùng là biến đổi fibrinogen thành fibrin tạo ra các chất tăng thấm mao quản, gây hóa hướng động. Chính hệ này làm tiêu sợi huyết trong phản ứng viêm bằng nhiều con đường (thông qua hệ kinin và hoạt hóa plasminogen thành plasmin và vai trò chính là tiêu cục máu).
Các chất hoại tử, các chất trung gian, các acid hữu cơ đều có thể kích thích các dây thần kinh co mạch, gây co thắt các cơ thắt tiểu động mạch, sau đó chúng bị tê liệt và lỏng dần ra, mạch bị giãn nên máu dồn đến nhiều. Hiện tượng trên sinh ra do phản xạ của sợi trục.
Tóm lại: Trong giai đoạn khởi đầu, các tổn thương ban đầu công phá tạo nên những biến động sâu sắc, đặc biệt là sự hoạt hóa của các men tiêu protein có trong túi lysosome, độ pH của mô bị hạ thấp có tác dụng diệt khuẩn, kích thích sự sinh sản của các tế bào, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của bạch cầu đa nhân, các chất trung gian gây giãn mạch, tăng tính thấm đã chuẩn bị đầy đủ các tiền đề cho các phản ứng tiếp theo.
Giai đoạn này cũng xảy ra rất sớm, dưới tác động của các chất hoạt mạch, các hệ thống mao mạch tại ổ viêm bị giãn, máu sẽ dồn đến nhiều làm khối lượng máu tăng lên, gây hiện tượng xung huyết. Hiện tượng xung huyết bao gồm: xung huyết động mạch và xung huyết tĩnh mạch.
Khi hệ thống mao mạch bị giãn, máu sẽ dồn đến nhiều ở vùng viêm làm khối lượng máu tăng lên. Vách mao quản gồm 2 lớp, lớp tế bào nội mô và màng đáy, cả 2 lớp này đều bị tổn thương.
Lớp tế bào nội mô trở nên thô ráp, sưng to và có nhiều nhú lồi, chất ciment gắn giữa các tế bào bị lỏng lẻo khi có viêm, tạo nhiều khe hở cho dịch thoát ra ngoài.
Lớp màng đáy, dưới tác động của các chất phân giải của vi khuẩn làm cho các lỗ trên màng đáy rộng ra. Tổn thương vách mao quản làm tăng tính thấm mao quản là hiện tượng hết sức cơ bản trong viêm.
Khi các chất thoát quản nhiều, độ quánh máu trong lòng mạch tăng lên làm hồng cầu dễ kết dính, tạo thành một chuỗi gây bít tắc, dòng máu chảy chậm lại, mặt khác dịch thoát ra ngoài lại gây chèn ép trở lại thành mạch, cản trở máu trở về và gây xung huyết tĩnh mạch.
Là hiện tượng tích tụ chất dịch vào trong mô kẽ do hậu quả của tổn thương thành mạch cùng với tác động của các chất trung gian hoạt mạch và gây phù viêm. Do xung huyết, ứ máu làm tăng áp lực thủy tĩnh nội mạch, tăng áp lực keo, tất cả các yếu tố này kéo nước và các thành phần khác của máu ra mô kẽ. Do vậy dịch phù trong viêm ở mô kẽ chứa nhiều huyết tương giàu protein (phản ứng Rivalta dương tính) có trọng lượng phân tử >1020 nên được gọi là dịch xuất tiết. Cần phân biệt với dịch thấm, dịch thấm thường có lượng protein thấp dưới 1g/100ml có trọng lượng phân tử <1020 gặp trong các trường hợp không viêm.
Thành phần này được thoát ra ngoài theo trình tự  từ trọng lượng phân tử thấp đến cao, ban đầu là albumin, về sau có globulin và cuối cùng là fibrinogen. Các thành phần này tham gia vào việc hình thành hàng rào bảo vệ xung quanh ổ viêm bởi mạng lưới fibrin  nhằm để khu trú viêm lại, globulin mang đến các kháng thể.
Bao gồm hồng cầu, tiểu cầu và chủ yếu là bạch cầu. Tùy theo tính chất và giai đoạn của viêm mà số lượng các loại bạch cầu thoát quản ra ngoài đến ổ viêm cũng khác nhau. Ví dụ: viêm tơ huyết thì ít bạch cầu, trái lại trong viêm mủ thì số lượng bạch cầu rất nhiều, đặc biệt là bạch cầu đa nhân trung tính.
Ý nghĩa: Như vậy trong những điều kiện thích hợp thì dịch phù viêm có nhiều tác dụng hữu ích.
- Biến chất gian bào từ trạng thái gel sang sol, làm loãng tác nhân gây bệnh và tạo môi trường thuận lợi cho vận động của bạch cầu.
- Dịch phù viêm mang đến tổ chức kẽ một lượng lớn các protein tham gia một cách hữu hiệu vào phản ứng viêm.
- Hàng rào lưới sợi tơ huyết làm ngăn cản không cho viêm lan rộng.
 Tuy nhiên, nếu dịch phù viêm quá nhiều có thể gây những hậu quả như :
         + Gây chèn ép mô xung quanh, gây đau, thậm chí hạn chế hoạt động của một số cơ quan (ví dụ: tràn dịch màng tim, màng phổi...) và gây viêm dính các màng.
         + Dịch tiết trên bề mặt niêm mạc, thanh mạc (tạo nên màng giả trong bệng bạch hầu, dịch xuất tiết trong viêm long đường hô hấp trên)
         + Dịch tiết trên mô kẽ của da gây hiện tượng nở to tế bào và các bọng nước trong một số bệnh về da.
Trong giai đoạn huyết quản huyết, bạch cầu đa nhân đóng vai trò quan trọng. Chúng được huy động đầu tiên và rất công hiệu nhằm tiêu diệt và loại trừ vật lạ. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy ở lách và được thải ra ngoài trên bề mặt các niêm mạc hô hấp, tiêu hóa ,tiết niệu.
Trong quá trình xuất tiết, các bạch cầu đa nhân sẽ chui qua thành mạch bị tổn thương và tiến đến ổ viêm để thực hiện chức năng thực bào, giải phóng các men tiêu hủy. Hoạt động của chúng qua các bước:
         - Giai đoạn tụ tập bạch cầu
Bình thường các bạch cầu di chuyển trong dòng máu theo đường trục giữa, nhưng khi đến tại ổ viêm chúng lại rẽ sang hai bên và bám vào thành mạch (cơ chế chưa thật rõ nhưng có lẽ tại ổ viêm có những yếu tố để huy động bạch cầu), gọi chung là hiện tượng nội mạc bạch cầu.
+ Phía tế bào nội mô thành mạch: Bề mặt các tế bào nội mô dính quánh và có nhiều nhú lồi, đồng thời có những yếu tố thụ cảm I.C.A.M. (Intra cellular adhesion molecular, phân tử dính nội tế bào). Các yếu tố này trùng hợp với các yếu tố có ở bề mặt của bạch cầu dễ kết dính.
+ Phía bạch cầu:  Bình thường trong túi nội bào của bạch cầu có một hệ thống 3 glycoprotein là LFA1 (Leuco factor A1), M.0, P150. Khi có những tín hiệu trung gian, những bổ thể C5a, các sản phẩm độc tố của vi khuẩn và các yếu tố hướng động thì các yếu tố này sẽ được hoạt hóa và thò ra bề mặt của bạch cầu để đến nơi cần thiết và thường chúng được huy động nhanh trong 6 giờ đầu.
Khi bạch cầu áp sát thành mạch, tác động do các tế bào nội mô bị tổn thương, chất xi măng gắn các tế bào bị lỏng, màng đáy thương tổn. Các bạch cầu thò các giả túc luồn lách chui qua thành mạch, ngay cả bạch cầu cũng chứa nhiều men làm tiêu hủy mô nên có thể xuyên mạch dễ dàng.
Là hiện tượng các tế bào nuốt, thâu tóm và tiêu hủy tác nhân xâm nhập. Trong các tế bào tham gia thực bào ở giai đoạn huyết quản huyết thì chủ yếu là bạch cầu đa nhân. Chúng được sản xuất ở tủy xương rồi biệt hóa thành 3 dòng bạch cầu.
+ Bạch cầu đa nhân trung tính
Loại này được huy động nhiều trong các loại viêm mủ do tác động của sản phẩm của vi khuẩn, của các yếu tố hóa hướng động, các chất hoại tử của cơ thể. Trong bào tương của chúng chứa các men phân giải nằm bên trong túi lysosome (ancalin, phosphates acid, lactoferin, protease, glycosidaza...) Các men này làm tăng hiệu lực diệt khuẩn.
+ Bạch cầu đa nhân ái toan
Dòng này chỉ chiếm tỷ lệ 2-5% cũng có tác dụng diệt khuẩn nhưng trong túi lysosome chứa ít men phân giải hơn. Chúng chỉ được huy động và tập trung tại các nơi xảy ra phản ứng dị ứng. Chúng tăng cao trong các phản ứng bệnh nhiễm ký sinh trùng.
+ Bạch cầu đa nhân ái kiềm
Dòng này chỉ chiếm tỷ lệ 1% loại này giống tế bào bón, có vai trò trong các phản ứng dị ứng và phản vệ do IgE gây ra. Loại này trong bào tương chứa các amin hoạt mạch như histamin, serotonin, thấy rõ nhất trong các phản ứng ở da. Chúng được kích thích bởi oestrogen và bị ức chế bởi corticoid.
 
                          
Thực bào là hiện tượng đã được nhà động vật học người Nga Metchnikoff (1845-1946) phát hiện khi nghiên cứu các tế bào thâu tóm và tiêu hủy các vật lạ ở các động vật biển và đã được giải thưởng Nobel Y học (1908). Khi bạch cầu đa nhân huy động đến ổ viêm thì chúng tiết ra các chất phủ trên bề mặt vật lạ (gọi là hiện tượng phủ), tiếp theo là chúng thò các giả túc bám dính và kéo vật lạ sát vào mình, co cuộn nguyên sinh chất lại, hình thành hốc thực bào, sau đó là tiêu hóa. Hiện tượng thực bào bị giảm thiểu rõ rệt trong các điều kiện: Nhiệt độ >40o, có phóng xạ mạnh, môi trường ưu trương.
Tóm lại: Giai đoạn huyết quản huyết là bước tạo điều kiện cho bạch cầu đa nhân bám sát vật lạ, bước đầu dịch phù viêm đã hạn chế, phân giải độc tố, chúng có mặt trong hầu hết các loại nhiễm khuẩn. Sự hoạt động của bạch cầu đa nhân có tính quyết định không những ở giai đoạn huyết quản huyết mà còn cho toàn bộ các quá trình viêm về sau.
Phục hồi hoàn toàn: Ở giai đoạn cuối của giai đoạn huyết quản huyết, viêm có thể đã kết thúc, các vi khuẩn bị tiêu diệt và loại bỏ, các chất gây trở ngại bị loại thải, các huyết quản thông suốt, dịch phù viêm được rút hết nhanh chóng, đó là sự phục hồi hoàn toàn viêm không để lại dấu vết gì.
- Quá trình viêm tiếp diễn: Nếu bạch cầu đa nhân không làm tròn nhiệm vụ, cơ thể sẽ phản ứng lại bằng cách huy động các tế bào đơn nhân và viêm chuyển qua giai đoạn phản ứng mô. Hoặc xấu, tại chỗ xác các bạch cầu, các tế bào bị hủy hoại nhưng ổ viêm vẫn khu trú và xung quanh có một hàng rào bạch cầu, sợi tơ huyếït và các tế bào đơn nhân xuất hiện, tạo nên ổ áp xe hoặc viêm lan tràn một vùng thậm chí gây nhiễm trùng huyết. Lúc này, nếu được điều trị kháng sinh thích hợp thì có thể qua khỏi.
Đây là giai đoạn tiếp theo của phản ứng huyết quản huyết. Tuy nhiên, không chỉ có tổ chức tại chỗ tham gia trong quá trình viêm mà còn có cả một hệ thống có mặt hầu khắp cơ thể đến tiếp sức. Ngoài ra, giai đoạn này còn tùy thuộc vào:
- Sự mất chất nhiều hay ít tại ổ viêm
- Tác nhân gây viêm
- Đặc điểm của mô bị viêm (mô cơ, mô xương...)
Trong giai đoạn này, cơ thể sẽ huy động 3 hệ tế bào tham gia: hệ lympho đơn bào, hệû liên kết và hệ biểu mô.
Hệ này gồm nhiều hình thái khác nhau nhưng đều có chung nguồn gốc xuất phát từ tủy xương và cùng chung chức năng là thực bào, thông tin, sản xuất kháng thể, loại trừ vật lạ. Xuất phát từ tủy xương, qua quá trình biệt hóa, chúng gồm 3 dòng: dòng bạch cầu đơn nhân, dòng lympho B, dòng lympho T.
Xuất phát từ tế bào nguồn (sterm cell) chúng biến thành nguyên bào đơn nhân (monoblast) rồi thành tế bào tiền đơn nhân (promonocyte) vào máu thành bạch cầu đơn nhân (monocyte) ở thai nhi, chúng theo máu đi khắp các nơi, vào các cơ quan, ví dụ ở gan (tế bào Kuffer), ở xương (hủy cốt bào), ở lách (mô bào -histocyte), tế bào lưới (reticulocyte), ở da (mô bào)... Các tế bào này tham gia vào cơ chế đề kháng nhằm loại trừ vi sinh vật ra khỏi máu.    
 

Metchnikoff gọi chung là đại thực bào (macrophage) trong bào tương của chúng có nhiều lysosome nội bào. Chúng không những là những tế bào tiêu diệt vật lạ mà còn phân cắt, trình diện các siêu cấu trúc kháng nguyên của vật lạ để cho các tế bào có thẩm quyền miễn dịch nhận diện và tiêu diệt.
Ở tủy xương, dưới dạng tiền lympho B sau đó đi qua túi Fabricius (Bursa Fabricius) của loài gà con và nhiều loài có cánh, tương ứng ở người là các hạch lympho, các nang lympho có mặt khắp nơi trong cơ thể để sau đó biệt hóa thành lympho B trưởng thành, khi gặp các kháng nguyên của cơ thể thì trở thành lympho B có trí nhớ. Cuối cùng chúng biến thành tương bào (plasmocyte) để sản xuất ra kháng thể dịch thể lưu hành trong máu.bao gồm IgA, IgM, IgD, IgE. Ngược lại các lympho B cũng được hoạt hóa dưới tác động của đại thực bào đã ăn kháng nguyên và của lympho bào T.
Ở tủy xương cũng dưới dạng tiền lympho T, sau đó đi qua tuyến ức (thymus) trở thành lympho T trưởng thành (vì vậy còn được gọi là lympho bào phụ thuộc tuyến ức). .Lympho T chiếm tỷ lệ 70-80% tổng số lympho lưu thông trong máu ngoại vi, có đời sống dài tới nhiều năm và thường di chuyển theo mạch bạch huyết đến các hạch kế cận hoặc khắp nơi, có vai trò nhận diện các tế bào lạ đối với cơ thể để tham gia đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào.
Cả ba dòng tế bào nói trên không hoạt động độc lập mà trái lại chúng hoạt động hỗ trợ hợp đồng nhau, tùy theo tính chất của sự xâm nhập mà chúng có thể biến hình từ loại này sang loại khác để đối phó.
Hệ này bao gồm các tế bào thuộc mô liên kết tại nơi viêm xảy ra. Khi mô bị viêm, các tế bào liên kết trước đây ở trạng thái tĩnh nay sẽ được hoạt hóa. Phản ứng của hệ này nhằm tạo nên những tế bào mới. Nhiều tế bào trở nên di động và sinh sản mạnh. Sự sinh sản phụ thuộc vào sự mất chất nhiều hay ít. Đặc biệt, để đáp ứng với sự tăng cường chuyển hóa của vùng quanh ổ viêm, các nụ huyết quản mọc ra thực sự để cung cấp máu và các tế bào viêm đến tham gia: đó là các huyết quản tân tạo. Các thành phần đó tạo nên một mô hạt viêm (mô hạt viêm thường gặp trong những tổn thương mất chất như viêm loét dạ dày) hoặc tăng sinh các tế bào xơ, tạo sẹo nhằm bù đắp vùng tổn thương.
- Hệ này bao gồm các lớp tế bào biểu mô phủ ở bề mặt da và biểu mô tuyến lót mặt trong lòng các ống tuyến .Trong điều kiện bình thường các lớp biểu mô này có vai trò như  “ hàng rào bảo vệ “ tạo nên ranh giới giữa môi trường bên ngoài và cơ thê.ø 
+ Da: nhờ lớp biểu mô lát tầng có sừng hóa nên có thể ngăn cản vi khuẩn, virus .Chỉ khi lớp da bị xây xát các tác nhân mới có cơ hội xâm nhập được.
+ Niêm mạc: Trong cơ thể có nhiều loại cấu trúc niêm mạc như vùng miệng họng, thực quản, cổ tử cung có cấu trúc gần giống với da cũng có cơ chế tương tự. Còn niêm mạc trụ chế tiết nhầy của hốc mũi, khí phế quản, dạ dày, ruột, các chất nhầy có chứa các men tiêu hủy có tác dụng như một màng che chở bề mặt niêm mạc. Khi có viêm các chất nhầy tăng lên rõ rệt (viêm mũi xuất tiết, viêm đường ruột xuất tiết) hoặc viêm mất chất, các tế bào biểu mô cũng quá sản để tái tạo tổn thương .Tuy nhiên, hệ biểu mô tuy có tham gia quá trình viêm nhưng rất ít và còn tùy thuộc vào sự hủy hoại nhiều hay ít và tùy thuộc vào phủ tạng. Đặc biệt, trong viêm kéo dài thường thấy hiện tượng dị sản biểu mô. Ví dụ dị sản biểu mô trụ thành biểu mô lát tầng trong viêm phế quản mạn, viêm cổ tử cung mạn...
         Là quá trình loại bỏ những mảnh mô vụn, những chất hoại tử, dị vật và cả dịch phù của viêm. Quá trình đó có thể xảy ra:
- Trong cơ thể: đại thực bào (đã  ăn và tiêu hủy những sản phẩm viêm) cũng như dịch phù đều được vận chuyển theo đường tĩnh mạch, mạch bạch huyết.
- Ngoài cơ thể: những sản phẩm viêm khi có quá nhiều, sẽ được thải bỏ ra ngoài cơ thể  (qua da, theo đường ống tự nhiên, hoặc theo lỗ dò mới hình thành)
- Theo kiểu nhân tạo: Phẫu thuật rạch rộng ổ viêm có thể thúc đẩy nhanh quá trình dọn sạch.
Nếu tác nhân gây viêm được loại khỏi thì viêm có thể chấm dứt và tổn thương sẽ được dọn sạch mau chóng, dịch phù viêm sẽ được rút đi dần, ổ viêm sẽ đi vào quá trình hàn gắn, các tế bào xơ sẽ tái tạo dần và có sự sắp xếp theo như cấu trúc cũ. Ngược lại, nếu hoại tử và mất chất nhiều, sự xơ hóa rộng sẽ ảnh hưởng lớn đến chức năng của các phủ tạng.
Nếu tác nhân gây viêm không bị giảm đi, tế bào và mô sẽ bị hủy hoại, quá trình viêm cứ tiếp diễn, chuyển từ  cấp tính sang bán cấp và viêm mạn tính, có lúc thì rầm rộ, có lúc thì âm ỉ. Viêm càng kéo dài thì sự sửa chữa càng khó, dù có khỏi, vùng mô bị tổn thương cũng để lại nhiều di chứng và ảnh hưởng đến chức năng của mô bị viêm.
         Là quá trình thay thế các mô và các tế bào bị hủy hoại bằng mô hoặc tế bào mới, bao gồm 2 hiện tượng: Tái tạo (thường dẩn đến sự phục hồi hoàn toàn của mô nguyên thủy ). Sửa chữa (thường dẫn đến kết quả xơ hóa, sẹo hóa).
- Tuổi người bệnh: việc hàn gắn vết thương sẽ rất nhanh đối với người trẻ, và chậm hơn đối với người trưởng thành và rất chậm đối với người già yếu.
- Vị trí: một vết thương ở vùng da đầu thường hàn gắn nhanh hơn vết thương vùng lưng, một vết thương ở mặt trước bàn tay thường hàn gắn nhanh hơn một vết thương ở mặt sau (cũng bàn tay đó).
 

- Chế độ dinh dưỡng: việc hàn gắn vết thương sẽ chậm hơn ở người thiếu ăn.
- Trình trạng bệnh: bệnh tiểu đường (hàn gắn vết thương sẽ chậm đi vì vách mạch máu đã chịu nhiều tác động xấu), bệng ung thư, bệnh bạch huyết (gây cản trở cho việc huy động bạch cầu), bệnh lao, AIDS v.v...
- Sử dụng quá nhiều thuốc: Các thuốc  chống viêm, chống ung thư sẽ ảnh hưởng đến việc bảo vệ cơ thể

IV. LỢI VÀ HẠI DO VIÊM

 Quá trình viêm thường tạo điều kiện thuận lợi cho cơ thể nhằm khu trú vùng tổn thương, bảo vệ các mô lành kế cận, hình thành nhiều yếu tố để trung hòa hủy diệt các tác nhân xâm nhập và hàn gắn vết thương.
 Quá trình viêm cũng có thể gây nhiều nguy hại cho cơ thể: tạo ra các triệu chứng, sưng, nóng, đỏ, đau, gây hủy hoại mô, làm vỡ các tạng, gây lỗ dò để lại nhiều di chứng dẫn đến hậu quả xấu trong quá trình tái tạo và sửa chữa.
1.1. Viêm xuất tiết: Do hiûên tượng phù viêm xuất tiết dịch vào mô kẽ hoặc vào các khoang cơ thể, ví dụ như tràn dịch màng phổi, màng tim v.v...
1.2. Viêm xung huyết: Do giãn mạch tạm thời biểu hiện dưới dạng ban đỏ.
1.3. Viêm chảy máu:  Do hồng cầu thoát mạch vào mô kẽ như chảy máu ở da, niêm mạc, viêm cầu thận chảy máu.
1.4. Viêm tơ huyết: Gồm dịch xuất tiết, huyết tương và tơ huyết. Viêm họng giả mạc trong bệnh bạch hầu, giai đoạn đầu của viêm phổi cấp, các hốc phổi chứa đầy hồng cầu và tơ huyết.
1.5. Viêm huyết khối: Do viêm thành mạch, viêm nội tâm mạc, như viêm tắc tĩnh mạch huyết khối
1.6. Viêm mủ: Do ứ đọng bạch cầu đa nhân giải phóng các men phân hủy tế bào và mô liên kết của vùng viêm, như viêm mủ màng phổi, viêm mủ ruột thừa.
1.7. Viêm loét: Gặp trong các tổn thương mất chất do mô hoại tử bong ra như viêm loét niêm mạc miệng, dạ dày.
         2.1. Viêm cấp: Quá trình viêm kéo dài vài ngày gồm chủ yếu là phản ứng huyết quản huyết và xâm nhập nhiều bạch cầu đa nhân .Viêm cấp có thể phục hồi hoàn toàn hoặc hình thành các ổ áp xe hoặc trở thành viêm mạn.
         2.2. Viêm bán cấp: Thường kéo dài nhiều tuần hoặc vài tháng, chủ yếu là giai đoạn phản ứng mô và hiện diện tổ chức hạt như viêm loét da.
         2.3. Viêm mạn: Quá trình viêm kéo dài nhiều tháng, nhiều năm. Bao gồm phản ứng sửa chữa, tăng sinh tổ chức xơ.
Kết luận: Không thể coi viêm như là một bệnh mà đây là phản ứng hữu hiệu của cơ thể chống lại sự xâm nhập của vật lạ. Do vậy người thầy thuốc cần nhận thức rõ và can thiệp đúng lúc.