2018-04-13

tứ chẩn


TỨ CHẨN (bốn phương pháp trong khám bệnh)
Tứ chẩn là vận dụng 4 phương pháp vọng (nhìn), văn (nghe, ngửi), vấn (hỏi), thiết (thiết) để quan sát, tìm các hiện tượng và chứng trạng của bệnh nhân, từ đó làm căn cứ để phán đoán bệnh tật.
Bài ca vấn chẩn:
Nhất vấn hàn, nhiệt. Nhị vấn hãn
Tam vấn ẩm thực. Tứ vấn tiện
Ngũ vấn thủ, thân. Lục nhãn, lung
Thất vấn miên, mộng. Bát vấn dục
Cửu vấn cựu bệnh. Thập vấn nhân
Phụ nhân vấn gia kinh, đới, sản
Tiểu nhi dưỡng, phòng, thiên sinh bệnh
Lão vấn tình chí, mạn tính bệnh
1.Vọng chẩn
Quan sát thần, sắc, hình thái, các bộ phận của người bệnh để xét đoán sự biến hóa của bệnh tật.
1.1.Thần
Thần là chỉ vào tinh thần, thần chí, thần khí. Xem xét sự biến hóa của thần có thể biét được sự thịnh, suy của con người, thấy được bệnh nặng hay nhẹ, tiên lượng tốt hay không. Khi xem thần cần xác định:
- Còn thần: người bệnh tỉnh táo tức là chính khí chưa suy thì tiên lượng bẹnh tốt
- Thần khí không tốt: người bệnh thờ ơ, lãnh đạm là hiện tượng chính khí suy yếu thì tiên lượng không tốt, chữa bệnh lâu dài
- Mất thần: chết. “ Mất thần thì chết còn thần thì sống”
- Hiện tượng “ giả thần” hay “hồi quang phản chiếu” : bệnh nhân tình trạng rất nặng, bệnh lâu ngày, cơ thể suy nhược đột nhiên tỉnh táo, muốn ăn uống là biểu hiện chính khí muốn thoát, bệnh nguy hiểm
1.2.Sắc
Sắc là sự biểu hiện ra bên ngoài của ngũ tạng và khí huyết. Thường xem sắc ở mặt. Người bình thường sắc tươi nhuận, khi có bệnh sẽ biến hóa như sau:
- Sắc trắng: trạng thái hư, lạnh, mất máu, huyết hư
- Đỏ: biểu hiện nhiệt
- Vàng: hư chứng, có thấp. Vàng như qủ quýt chín à thấp nhiệt. Vàng nhợt không tươi là do tỳ hư
- Xanh: hiện tượng khí huyết ứ trệ, thuộc về hàn và đau
- Đen: đại diện cho hàn, đau, thận hư, thuỷ đình
1.3.Trạch
Trạch là vẻ tươi nhuận, khô ráo, sáng sủa, mờ tối. Tươi nhuận là tinh khí thịnh, bệnh nhẹ. Khô sạm là tinh khí suy, bệnh nặng
1.4. Hình thái
Hình là hình thể, thái là động thái. Xem hình thái để xác định bệnh thuộc âm hay dương, tình trạng của ngũ tạng.
- Bệnh nhân lười vận động, thích yên tĩnh, nằm quay vào trong thuộc âm chứng. Nếu ưa vận động, thích huyên náo, nằm quay ra ngoài thuộc dương chứng
- Bệnh nhân nằm co là có hàn, nằm duỗi dang chân tay là có nhiệt
- Bệnh nhân gầy yếu thường đại diện cho hư, béo bệu ( đàm thấp)
- Tình trạng của các tạng: ngang lưng là phủ của thận, nếu quay trở không được là do thận hư. Đầu gối là phủ của gân, co duỗi không được, đi lom khom là do can hư...
1.5. Mắt
Sưng đỏ là có nhiệt, can hỏa. Vàng là hoàng đản. Trắng nhờ là khí huyết hư. Toét mắt là thấp nhiệt. Mọng mi là thuỷ thũng. Hõm xuống là tân dịch suy. Trợn ngược là can phong. Quanh mắt quầng thâm là thận hư
1.6. Môi, Mũi
Mũi nghẹt chảy nước mũi đục là ngoại cảm phong nhiệt, chảy nước trong là ngoại cảm phong hàn.
Môi đỏ khô là nhiệt, nhợt là huyết hư, xanh tím là lạnh, ứ huyết
1.7. Da
Xem trên da có các ban chẩn hay không ( là những đám nhỏ nổi trên mặt da), màu sắc và sự tươi nhuận của ban chẩn. Còn tươi nhuận là chính khí chưa suy
1.8. Lưỡi
Bao gồm 2 bộ phận: chất lưỡi và rêu lưỡi. Chất lưỡi là tổ chức cơ, mạch của lưỡi. Rêu lưỡi là chất phủ lên trên bề mặt lưỡi. Xem chất lưỡi có thể biét được hư thực của ngũ tạng, xem rêu lưỡi có thể biết sự nông sâu của bệnh
Bình thường chất lưỡi đỏ nhuận, mềm mại, khô ướt vừa phải, rêu lưỡi mỏng trắng hoặc không có rêu
Lưỡi có quan hệ với tâm, thận, tỳ, can. Đầu lưỡi là tâm, cuống lưỡi thuộc thận, hai bên thuộc can đởm, giữa thuộc vị, xung quanh thuộc tỳ
* Chất lưỡi
Xem sắc của lưỡi màu gì
- Sác nhợt là khí huýet ở tâm, tỳ hư
- Đỏ là nhiệt ( thực nhiệt hoặc hư nhiệt)
- Đỏ sẫm: nhiệt thịnh
- Xanh tím: khô là có nhiệt. Nhuận là có hàn. Nếu có đám tím là có huyết ứ
* Hình thể lưỡi
- Lưỡi mọng : lưỡi to ra. Kiêm trắng nhợt: tỳ thận dương hư. Đỏ hơn là thấp nhiệt bên trong hay nhiệt độc thịnh
- Lưỡi mỏng gầy: Lưỡi bé đi. Kiêm nhạt hơn: khí huyết không đủ, tâm tỳ hư. Nếu đỏ sẫm: âm hư nhiệt thịnh, tân dịch hao
- Mặt lưỡi có kẽ nứt kiêm đỏ sẫm: nhiệt thịnh, kiêm nhạt trắng: âm huyết không đủ
* Trạng thái vận động
- Lưỡi mềm yếu, nhạt màu, bệnh lâu ngày: khí huyết đều hư. Đỏ sẫm, yếu: âm hư cực. Bệnh mới, lưỡi đỏ khô, yếu: nhiệt làm tổn thương âm
- Lưỡi lệch: trúng phong
- Lưỡi rụt: bệnh nguy kịch
* Rêu lưỡi
- Rêu trắng: bệnh ở biểu, có hàn. Trắng dính do đàm trọc. Rêu trắng, nứt khô hoặc như tích phấn là nhiệt tà nội thịnh, tân dịch bị tổn thương
- Rêu vàng: bệnh ở lý, có nhiệt, càng vàng thì nhiệt càng nặng. Vàng dính là do thấp nhiệt
- Rêu xám đen: chứng nhiệt, chứng hàn thấp, hư hàn. Nếu cáu khô là nhiệt tích làm tổn thương âm
- Rêu mỏng là bệnh nhẹ ở biểu. Rêu dày là tà đã vào lý. Rêu nhuận là tân dịch còn tốt. Nhờn dính là thủy thấp tích lại. Khô là tân dịch đã hao. Rêu cáu bẩn là thực nhiệt, thấp trọc thịnh. Không có rêu thường là vị âm khô
1.9. Xem chất thải
Xem đờm dãi, chất nôn, phân, nước tiểu. Nói chung nếu lỏng, trắng là chứng hàn, vangf, đục, dính là chứng nhiệt
1.10. Chỉ văn (mạch máu)
Xem chỉ văn ở ngón tay trỏ. Mạch máu tháy rõ ở đốt một là phong quan, ở đốt 2 là khí quan, ở đốt 3 là mệnh quan. Chỉ xem ở trẻ em dưới 3 tuổi
Bình thương chỉ văn màu vàng hồng, ẩn hiện ở phong quan. Nếu màu sắc thay đổi là có bệnh. Sắc xanh là có phong, đau. Xanh, tím đen là huyết lạc bế tắc. Sắ nhợt, nhỏ là hư. Sắc sẫm, to là tà thịnh. Chỉ văn ở phong quan là bệnh nhẹ, ở khí quan nặng hơn, ở mệnh quan là bệnh nặng
2. Văn chẩn ( nghe, ngửi)
2.1. Nghe âm thanh
- Nghe tiếng nói: nói to, có sức: thực nhiệt
Nói nhỏ, nhẹ, đứt quãng: hư hàn
Nói ngọng: có phong đàm
- Tiếng thở: thở thô, to là thực chứng
thở nhỏ, không ra hơi là hư chứng
- Tiếng ho: tiếng to đục là thực, nhỏ yếu là hư. Ho có đờm gốc bệnh thường ở tỳ, ho khan, ít đờm gốc bệnh ở phế
- Tiếng nôn, nấc: nôn, nấc là do vị khí nghịch. Tiếng to, ngằn, mạnh là thực nhiệt. Nhỏ yếu là hư hàn
2.2. Ngửi mùi
- Ngửi mùi phân: khắm là nhiệt, tanh là hàn. Ngửi hơi trung tiện nếu rất thối là tiêu hóa kém, có thực tích
- Mùi nước tiểu: khai đục là thấp nhiệt ở hạ tiêu
- Hơi nói ra mà hôi là vị có nhiệt
3. Vấn chẩn ( hỏi): thập vấn
3.1. Hàn nhiệt
Hỏi về hàn nhiệt có thể phân biệt được biểu, lý, hư, thực của bệnh.
- Bệnh nhân sợ lạnh, người lạnh là có hàn. Nếu bệnh mới mắc thường là ngoại cảm phong hàn. Còn nếu bệnh lâu ngày kèm thêm tay chân lạnh là dương hư, lý hàn
- Bệnh nhân có sốt cao hoặc sốt về chiều ( triều nhiệt), nóng trong xương (cốt trưng) là biểu hiện nhiệt.
- Sốt nhiều, sợ lạnh ít: biểu nhiệt. Sốt ít sợ lạnh nhiều: biểu hàn. Hàn nhiệt vãng lai (lúc nóng lúc rét): bán biểu bán lý
3.2. Mồ hôi
- Hỏi có mồ hôi hay không có mồ hôi. Chứng ở biểu không có mồ hôi: biểu thực, còn có mồ hôi là biểu hư
- Thời gian ra mồ hôi. Tự ra mồ hôi ban ngày (tự hãn): dương hư. Nếu ra mồ hôi trộm khi ngủ, tỉnh dậy hết (đạo hãn): âm hư
- Tính chất, số lượng mồ hôi. Mồ hôi thấp nhiệt thì màu sắc thường vàng. Mồ hôi dính như dầu là tuyệt hãn (bệnh nặng). Mồ hôi ra toàn thân, không cầm được, toàn thân lạnh là chứng vong dương
3.3. Ăn uống
- Không thèm ăn, chán ăn, ở bệnh mới mắc thường là do thức ăn tích trệ, ngoại cảm có thấp; ở bệnh cũ thường là tỳ vị hư, thận dương không đủ
- Rất thèm ăn và ăn nhiều, mau đói, người gầy là vị hỏa. Đói không muốn ăn thường là vị âm không đủ
- Người bệnh ăn uống thích nóng phần nhiều thuộc hàn ở trong, thích lạnh phần nhiều thuộc nhiệt ở trong
- Miệng đắng thường là can đởm nhiệt, có vị chua thối là trường vị có thực tích, miệng nhạt là thấp trọc ở vị, miệng mặn là thận hư, miệng thối là vị hỏa thịnh
- Khi có bệnh mà ăn uống tốt là vị khí còn tốt, tiên lượng tốt. Nếu ăn uống kém rồi ăn tăng dần là vị khí đang phục hồi thì bệnh sẽ chuyển sang nhẹ dần
3.4. Đại tiểu tiện
* Tiểu tiện: chú ý màu sắc, số lượng, số lần đi tiểu
- Tiểu ít, vàng, nóng: thực nhiệt. Nước tiểu ít thường là thủy thấp đình ở trong, đái ít có mồ hôi nhiều hoặc nôn, ỉa lỏng nhiều là tân dịch bị hao tổn
- Nước tiểu nhiều, trong: hàn. Nếu đái nhiều lần hơn, nước đái nhiều hơn, uống nhiều hơn thường là tiêu khát
- Đi tiểu luôn, đái rắt, đái đau, nước tiểu đỏ: thấp nhiệt ở bàng quang
- Đi tiểu nhiều lần, số lượng ít: thận khí không vững
- Đái dầm, đái không tự chủ: thận khí hư
* Đại tiện
- Phân khô, đại tiện khó, bụng đầy đau tức: thực nhiệt
- Người có bệnh lâu, mới đẻ, mất máu, người già mà đại tiện khó, phân khô là do khí huyết hư
- Đại tiện nhiều lần, phân nhão không thành khuôn, mùi khắm là có nhiệt tích ở trong, còn nếu không có mùi là tỳ vị hư hàn. Phân lỏng như nước, đái ít là do thuỷ thấp tràn xuống dưới. Sáng sớm dậy đau quanh rốn rồi ỉa lỏng (ngũ canh tả) là tỳ thận dương hư
- Phân đầu rắn đuôi nát: tỳ vị hư, trung khí kém
- Phân có máu mủ, mót rặn: lỵ
3.5.Đau
3.5.1. Vị trí đau( đầu, ngực, bụng, các khớp xương...)
- Đau ở đầu: nếu ở sau gáy và chẩm thuộc kinh thái dương
nếu ở trán thuộc kinh dương minh
nếu ở hai bên thuộc kinh thiếu dương
ở đỉnh đàu thuộc kinh quyết âm
- Đau ngực: có ho là bệnh ở phế. Tức chướng cạnh sườn: bệnh ở can. Nếu tim đập hồi hộp: bệnh ở tâm
- Đau bụng trên: đau có nôn, ợ: bệnh ở dạ dày. Đau có ỉa lỏng, bụng chướng: bệnh ở tỳ
- Đau căng bụng dưới có thể do can uất, bệnh phụ khoa...
- Đau vùng thát lưng: do thận hư, hàn thấp, huyết ứ
3.5.2.Tính chất đau
- Đau di động, có tê: do phong. Có nặng nề là do thấp. Đau nhức, sợ lạnh là do hàn, có sưng, nóng đỏ là do nhiệt. Có căng truớng là do khí trệ. Đau như kim châm là do huyết ứ
3.5.3.Mức độ đau
- Bệnh mới, đau mạnh, không giảm hoặc cự án: chứng thực
- Bệnh lâu, đau có lúc giảm hoặc thích xoa nắn (thiện án): chứng hư
3.6.Ngủ
- Mất ngủ, hồi hộp, dễ tỉnh, hay mơ: tâm huyết hư
- Khó ngủ, ngũ tâm phiền nhiệt: âm hư hoả vượng
- Khó ngủ, bồn chồn, miệng đắng, có đờm dãi: đàm hỏa nhiễm tâm
- Ngủ li bì thường do bệnh nhiệt, khí hư, dương hư âm thinh, thấp làm trở ngại, thanh dương không bốc lên đầu
3.7.Ù tai, điếc tai
- Điếc đột ngột thuộc thực, điếc lâu ngày thuộc hư
- Tai ù mà đầu choáng, hay hồi hộp phần nhiều thuộc hư. Tai ù mà đại tiện táo, ngực buồn bực, ăn kém hoặc nôn mửa phần nhiều thuộc chứng thực
3.8.Khát
- Khát thích uống nước lạnh: thực nhiệt
- Khát không uống nhiều nước hoặc thích uống nóng: thấp hoặc hư hàn
- Miệng khô không khát, không muốn uống: hàn
- Miệng khát muốn uống sau khi ra mồ hôi, nôn, ỉa chảy là do mất tân dịch
- Miệng khát muốn uống nhưng uống vào là nôn, đái ít: chứng thuỷ nghịch
3.9.Tình hình bệnh tật cũ
- Bệnh nhân đã mắc những bệnh gì, đã chẩn đoán và điều trị như thế nào và kết quả điều trị ra sao
3.10. Kinh nguyệt, khí hư
* Kinh nguyệt
- Kinh đến trước kỳ sắc đỏ hồng, lượng nhiều: huyết nhiệt
- Kinh đến trước kỳ, sắc dỏ nhạt, lượng ít, khi sạch kinh thì đau bụng: khí huyết không đủ
- Kinh đến sau kỳ, sắc xạm, có cục, trước khi có kinh đau bụng: hàn huyết ứ
- Kinh đến sau kỳ, sắc nhạt, lượng ít: huyết hư
- Kinh không đều thường kèm kinh đau hoặc trước khi hành kinh có vú đau là do can uất khí trệ
- Rong kinh mà có cục, màu sẫm, đau bụng là do nhiệt bức huyết vong hành
- Rong kinh mà không có cục, màu nhạt, đau bụng là do 2 mạch xung nhâm hư tổn, khí hư hạ hãm
* Khí hư
- Màu trắng loãng, lượng nhiều, ít hôi thường do tỳ thận hư hàn
- Màu vàng, đặc, hôi là do thấp nhiệt vùng hạ tiêu
4. Thiết (bắt mạch và sờ nắn thân thể)
Thiết rất cần thiết và quan trọng vì giúp thầy thuốc phát hiện được những biểu hiện lâm sàng khách quan, từ đó phối hợp với vọng, văn, vấn làm cho tứ chẩn được hoàn chỉnh
4.1. Bắt mạch
* Vị trí: thường ở thốn khẩu (mạch quay). Khi cần có thể bắt ở các vị trí khác ( động mạch đùi, động mạch chày sau, mu chân...)
- Mạch ở thốn khẩu có 3 bộ: thốn, quan, xích. Mỗi bộ mạch đại diện cho 1 tạng phủ. Bộ thốn ở sát nếp gấp cổ tay. Bộ quan ở ngang mỏm trâm quay. Bộ xích sat ngay sau bộ quan.
- Bên phải thuộc dương khí với mệnh môn hỏa (xích) sinh tỳ thổ (quan), tỳ thổ sinh phế kim (thốn).
- Bên trái thuộc âm huyết với thận thuỷ (xích) sinh can mộc (quan), can mộc sinh tâm hỏa(thốn).
Bộ
Tay trái
Tay phải
Thốn
Tâm - tiểu trường
Phế - đại trường
Quan
Can - đởm
Tỳ - vị
Xích
Thận – bàng quang
Thận - mệnh môn

*Cách xem mạch:
- Bệnh nhân nên nghỉ ngơi 15 phút trước khi xem mạch, tư thế thoải mái. Xem mạch vào buổi sáng khi BN chưa ăn gì là tốt nhất. Thầy thuốc cũng phải tĩnh tâm thì xem mạch mới chính xác
- BN ngửa bàn tay. Thầy thuốc dùng 3 ngón tay trỏ, giữa, nhẫn đặt vào mạch: ngón giữa bộ quan, trỏ bộ thốn, nhẫn bộ xích. Tay phải thầy thuốc xem tay trái BN, tay trái thầy thuốc thì xem tay phải BN.
- Có 3 mức độ ấn tay: ấn nhẹ đã thấy mạch đập là thượng án, ấn vừa phải là trung ấn, ấn sâu sát xương thấy mạch đập là hạ án
- Xem mạch thường xem tổng khán trước (xem cả 3 bộ) rồi xem từng bộ mạch sau (đơn khán)
- Mạch bình thường là mạch ở cả 3 bộ, không phù, không trầm, không nhanh không chậm, mỗi hơi thở có 4 đập, nhịp đều, hòa hoãn, có lực.
Mạch có quan hệ mật thiết với hoạt động bên trong , môi trường bên ngoài của con người. Trẻ sơ sinh đập 120 – 140 lần/ phút, 5 – 6 tuổi đập 90 – 110 lần/ phút. Thanh niên đập mạnh, người già đập yếu, người gầy mạch phù, người béo mạch hay trầm. Thời tiết cũng có ảnh hưởng đến mạch. Mùa xuân mạch hơi huyền, mùa hạ mạch hơi hồng, mùa thu mạch hơi phù, mùa đông mạch hơi trầm
*Mạch bệnh lý: Phù, trầm, trì, sác, huyền, hoạt....
4.2. Sờ nắn
* Xúc chẩn
- Sờ da để biết nóng, lạnh, dùng mu bàn tay để kiểm tra. Nếu mới sờ thấy nóng, sau đó nóng giảm dần: nhiệt ở biểu. Sờ càng lâu càng thấy nóng lên: nhiệt ở lý
- Da lòng bàn tay nóng: nội nhiệt. Mu tay nóng: ngoại cảm
- Sờ thấy lạnh ở chân tay: ngoại hàn. Lạnh ở bụng dưới: lý hàn
- Sờ để xác định có phù nề không, da khô hay nhuận, mụn nhọt không...
- Xem cơ nhục có teo nhẽo không, có đau không...
* Phúc chẩn (sờ bụng)
- Xác định xem có đau không. Thiện án (thích xoa bóp) hay cự án (không thích xoa bóp). Xem bụng có khối rắn, có u cục không, có nước không...(có trưng hà không – Trưng là ở bụng có khối rắn, cứng, không di động, cố định. Hà chỉ khối di động, không cố định, lúc hiện lúc mất)