Mục tiêu:
- Viết ra được
định nghĩa ngôi, thế và kiểu thế
- Kể ra được
5 loại ngôi cùng các điểm mốc tương ứng
- Mô tả được
các bước khám chẩn đoán ngôi thế và kiểu thế
Định nghĩa:
Ngôi:
Ngôi: là phần
của thai nhi trình diện trước mặt phẳng eo trên khung chậu người mẹ khi mang
thai hoặc khi chuyển dạ.
Ngôi trong
khi có thai có thể khác khi chuyển dạ.
Về cơ bản thì
có 2 loại ngôi:
1. Ngôi dọc:
- trục của
thai nhi trùng với trục của tử cung, trục của tử cung là từ trên xuống dưới, từ
đáy tử cung đến cổ tử cung.
Trong ngôi dọc
có 2 loại:
- ngôi đầu: đầu thai nhi trình diện trước eo trên. Ngôi đầu
gồm:
+ ngôi chỏm:
phần chẩm của thai trình diện trước eo trên.
+ ngôi trán
+ ngôi mặt
(Tùy thuộc
vào độ cúi của ngôi)
- ngôi mông: hay còn gọi là ngôi ngược, là mông của thai
nhi trình diện trước eo trên. Ngôi mông gồm:
+ ngôi mông
hoàn toàn: hay còn gọi là ngôi mông đủ, tức là khớp háng và gối gấp lại, mông
trình diện trước eo trên, giống như đứa trẻ ngồi xổm.
+ ngôi mông
không hoàn toàn: ngôi mông thiếu. gồm:
o kiểu mông:
hai chân vắt ngược lên trên cổ, trên tai, chỉ có mông ở dưới. Gọi là ngôi mông
không hoàn toàn kiểu mông.
o kiểu đầu gối:
thai nhi quỳ ở trong buồng tử cung.
o kiểu chân:
thai đứng hẳn trong buồng tử cung, hai bàn chân ở lỗ trong cổ tử cung.
2. Ngôi ngang: ngôi vai
- trục của
thai nhi vuông góc hoặc bắt chéo với trục của tử cung người mẹ.
- do vậy, khi
mông thai hoặc đầu thai chếch sang một bên thì cũng được gọi là ngôi ngang.
(!) ngoài ra
thì ta có thể gặp những ngôi phức hợp khác.
Mốc của ngôi:
Mỗi loại ngôi
thai thì đều có một điểm mốc nhất định, dựa vào các điểm mốc đó ta phân biệt
các loại ngôi thai.
Ngôi chỏm: mốc
là xương chẩm (thóp sau)
Ngôi trán: mốc
là gốc mũi
Ngôi mặt: mốc
là mỏm cằm
Ngôi mông: mốc
là đỉnh xương cùng
Ngôi vai: mốc
là mỏm vai
Độ cúi của ngôi:
Độ cúi của
ngôi liên quan đến tiên lượng của một cuộc đẻ.
Bình thường độ
cúi của ngôi chỏm trong cuộc chuyển dạ là: đầu cúi hoàn toàn, cằm gập sát vào
phần trên của ngực, phần chẩm được trình diện trước eo trên.
Nếu đầu không
cúi hết sẽ dẫn đến ngôi trán và nếu cổ ngửa ra thì dẫn đến ngôi mặt.
Thế:
Thế là tương
quan giữa điểm mốc của ngôi thai (chú ý là điểm mốc của ngôi chứ không phải là
diện lưng) với bên phải hoặc bên trái khung chậu của người mẹ.
Như vậy mỗi
thai sẽ có thể có thế phải hoặc thế trái.
Kiểu thế:
Kiểu thế là mối
tương quan giữa điểm mốc của ngôi với vị trí trước, ngang hay sau khung chậu của
người mẹ.
Mỗi một thể lại
có 3 kiểu thế tùy theo mốc của ngôi:
- nằm ở vị trí
khớp cùng chậu (kiểu thế sau)
- nằm ở gờ vô
danh (kiểu thế ngang)
- nằm ở dải
chậu lược (kiểu thế trước)
Muốn xác định
được kiểu thế của ngôi ta phải xác định được ngôi, mốc của ngôi và thế, sau đó
mới xác định được kiểu thế.
Ngôi chỏm:
Chẩm chậu
trái trước (CCTT)
Chẩm chậu
trái ngang (CCTN)
Chẩm chậu
trái sau (CCTS)
Chẩm chậu phải
trước (CCFT)
Chẩm chậu phải
ngang (CCFN)
Chẩm chậu phải
sau (CCFS)
Ngôi trán:
Mũi chậu trái
trước (MCTT)
Mũi chậu trái
ngang (MCTN)
Mũi chậu trái
sau (MCTS)
Mũi chậu phải
trước (MCFT)
Mũi chậu phải
ngang (MCFN)
Mũi chậu phải
sau (MCFS)
Ngôi mặt:
Cằm chậu trái
trước (CmCTT)
Cằm chậu trái
ngang (CmCTN)
Cằm chậu trái
sau (CmCTS)
Cằm chậu phải
trước (CmCFT)
Cằm chậu phải
ngang (CmCFN)
Cằm chậu phải
sau (CmCFS)
Ngôi mông:
Cùng chậu
trái trước (CgCTT)
Cùng chậu
trái ngang (CgCTN)
Cùng chậu
trái sau (CgCTS)
Cùng chậu phải
trước (CgCFT)
Cùng chậu phải
ngang (CgCFN)
Cùng chậu phải
sau (CgCFS)
Ngôi vai:
Vai chậu trái
trước (VCTT)
Vai chậu trái
ngang (VCTN)
Vai chậu trái
sau (VCTS)
Vai chậu phải
trước (VCFT)
Vai chậu phải
ngang (VCFN)
Vai chậu phải
sau (VCFS)
* Kiểu thế sổ:
Khi ngôi đã
xuống eo giữa và eo dưới thì tùy theo cơ chế đẻ mà điểm mốc của ngôi so với
khung chậu của người mẹ, ta sẽ có kiểu thế sổ của ngôi:
Ngôi chỏm có
2 kiểu sổ: chẩm vệ và chẩm cùng
Ngôi ngược
(ngôi mông) có 2 kiểu sổ: cùng ngang trái và cùng ngang phải
Ngôi mặt: có
1 kiểu sổ là cằm - vệ và 1 kiểu không thể sổ được là cằm - cùng => mổ lấy
thai.
Ngôi vai
(ngôi ngang), ngôi trán: không có kiểu thế sổ vì không thể lọt được => mổ lấy
thai
Chẩn đoán ngôi, thế, kiểu thế:
* Hỏi:
- Thai đạp
phía trên hay phía dưới
- Thai đạp
bên phải hay bên trái của sản phụ
* Nhìn:
- Bụng có
hình trứng trong ngôi dọc hay bề ngang trong ngôi vai.
* Sờ nắn: 4 thủ thuật Léopold
thai phụ nằm
ngửa, hai chân chống, đùi tạo với mặt giường góc 45 độ.
Thường thì
người khám đứng bên phải sản phụ.
1. Nắn vùng
đáy tử cung để xác định cực nào của thai thi (đầu hay mông) ở đó.
Nếu khối có
chỗ rắn và chỗ mềm, không tròn, ít di động thì thường đó là khối mông. Nếu sờ
thấy khối rắn chắc, tròn đều, dễ di động như cục nước đá thì xác định đó là đầu
của thai nhi.
Đa phần sờ rất
dễ, tuy nhiên trong một số trường hợp, nhất là thai non tháng hoặc người sản phụ
béo, thành bụng dày thì khó xác định được ngôi của thai.
2. Nắn nhẹ
nhàng nhưng sâu ở hai bên bụng để xác định bên nào là lưng, bên nào là chi của
thai nhi.
Nếu là lưng
thì ta sờ thấy một diện phẳng, đều, còn bên lổn nhổn, không đều ta có thể xác định
đó là phần chi.
+ Sờ thấy diện
lưng và ít các cực chi => thai nhi nằm sấp, kiểu thế trước.
+ Sờ được ít
diện lưng và nhiều cực chi lổn nhổn => thai nhi nằm ngửa, kiểu thế sau
3. Dùng ngón
cái và các ngón còn lại của bàn tay phải nắn vùng trên khớp vệ của sản phụ để
xác định ngôi thai (đầu hay mông).
4. Dùng đầu
các ngón tay ấn sâu trên khớp vệ theo trục của eo trên, giúp xác định độ lọt của
ngôi.
# Người khám
xoay mặt về phía chân của sản phụ, dùng cạnh một bàn tay ấn sâu xuống bờ trên của
khớp vệ (xác định độ lọt). Nếu ấn xuống dễ dàng thì đầu thai còn cao. Nếu đầu
chúc trong tiểu khung rồi thì ta không thể đặt cạnh bàn tay xuống được nữa.
* Nghe tim thai:
Trước đây, việc
nghe tim thai kinh điển bằng ống gỗ khá khó, phải xác định điểm nghe rất chính
xác thì mới nghe được mờ nhạt.
Hiện giờ thì
có doppler cầm tay cũng như máy siêu âm, monitoring rất phổ biến cho nên việc bắt
được ổ tim thai rất dễ. Có thể để đầu dò rất xa nhưng hướng đúng vào ổ tim thai
thì vẫn bắt được nhịp tim thai.
+ Vị trí:
trên hay dưới rốn, gần hay xa đường giữa
+ Ngôi chỏm,
ngôi mông: nghe rõ nhất ở phía lưng thai
+ Ngôi mặt: nghe
rõ nhất ở phía ngực thai
* Thăm âm đạo:
Khi chuyển dạ,
cổ tử cung mở thì khám âm đạo giúp chẩn đoán chính xác ngôi, thế, kiểu thế.
* Xác định mốc của ngôi:
+ Ở vị trí 10-11h
hoặc 1-2h là kiểu thế trước.
+ Ở vị trí 3h
hoặc 9h là kiểu thế ngang.
+ Ở vị trí
7-8h hoặc 4-5h là kiểu thế sau.
* Cận lâm sàng:
+ Siêu âm: an
toàn, chính xác, sử dụng trong trường hợp khó: sản phụ quá béo, thành bụng dày,
chắc.
+ Chụp X
quang: khi không có phương tiện siêu âm.
Đôi khi cũng
phải sử dụng đến X quang để xác định vị trí, tư thế hoặc thành phần của thai.
Song từ khi có siêu âm thì vai trò của X quang ngày càng ít đi.
Hạn chế dùng
thuật ngữ "ngôi đầu"
Mốc: chấm
(C), mũi (M), cằm (Cm), cùng (Cg)
Thế phải thì
thường đẻ lâu hơn.
Bước 3 của thủ
thuật Leopold dùng 1 bàn tay (các bước khác dùng 2 bàn tay).
Song thai =>
không dùng thủ thuật Leopold.
Khái niệm
thai to là khác nhau đối với từng trường hợp bệnh nhân, ví dụ: con so # con dạ,
ngôi mông? Song thai?
(!) ngôi vai
sa tay