Dieutri.vn
Đại cương
Định nghĩa
Khi có sự chèn ép các
thành phần của trung thất, trên lâm sàng có thể
thấy hội chứng trung thất.
Nhắc lại về giải phẫu
Vị trí và giới hạn:
Trung thất ở trung tâm lồng ngực, giới hạn phía trước bởi xương ức, phía sau là
cột sống, hai bên là phổi và màng phổi, phía trên thông với các tổ chức đệm ở
cổ, dưới cơ hoành.
Phân chia: Tim và các
mạch máu lớn chia trung thất ra làm hai phần trước và sau:
Trung thất trước gồm:
Tuyến hung (tuyến ức) ở trẻ em.
Ngã ba khí phế quản và
nhóm hạch bạch huyết bao quanh khí phế quản.
Tim.
Động mạch chủ và động
mạch phổi, các tĩnh mạch chủ và tĩnh mạch phổi.
Giữa động mạch phổi và
phần lên của động mạch chủ là dây thần kinh quặt ngược.
Trung thất sau gồm:
Thực quản và nhóm hạch
bạch huyết bao quanh thực quản.
Tĩnh mạch đơn
(azygos).
Ống ngực.
Đoạn xuống của động
mạch chủ.
Các dây thần kinh giao
cảm và phế vị.
Tuỳ theo vị trí chèn
ép của một hay nhiều thành phần của trung thất trước hoặc trung thất sau, ta
thấy những biểu hiện lâm sàng khác.
Triệu chứng lâm sàng
Hội chứng trung thất
gồm có bốn triệu chứng:
Triệu chứng chèn ép khí phế quản.
Triệu chứng chén ép các mạch máu.
Triệu chứng chèn ép thực quản.
Triệu chứng chèn ép dây thần kinh.
Tuy vậy, ít khi có đủ bốn loại triệu chứng cùng một lúc ở một người bệnh có khi có những khối u rất to mà chỉ xô đẩy các
thành phần của trung thất chứ không gây ra một sự chèn ép nào.
(1) Triệu chứng chèn
ép khí phế quản
Có ba triệu chứng chính:
(1.1) Khó thở: Thường là khó
thở vào, có thể kèm theo tiếng thở rít và rút lõm trên, dưới ức. Hay xảy ra ở một vài tư thế, nằm ngửa
hoặc nằm nghiêng.
(1.2) Ho:
Ho khan, ho từng cơn và oang oang, nghe như rống lên. Có khi ho ra máu.
(1.3) Đau ngực: Tính chất của đau ngực they đổi tuỳ theo địa điểm của chèn ép.
Có khi đau ở một chỗ
cố định.
Có khi đau dọc theo
xương sườn, kiểu đau dây thần kinh liên sườn.
Có thể đau lan lên cổ và
hai tay.
(2) Triệu chứng chèn
ép các mạch máu
Hội chứng chèn ép tĩnh
mạch chủ trên.
Sự chèn ép tĩnh mạch
chủ trên, gây ứ máu ở não, người bệnh thường bị:
Nhức đầu, khó ngủ làm
việc trí óc chóng mệt.
Tím mặt: Mới đầu chỉ có thể có ở môi, má,tai, tăng
lên khi ho và gắng sức. Sau cùng, cả nửa người trở nên tím ngắt hoặc đỏ
tía.
Phù: Phù ở mặt, cổ, lồng ngực, lưng có khi cả hai
tay, cổ thường to hạch, làm cho người bệnh không cài được khuy cổ (phù kiểu áo
choàng).
Tĩnh mạch nổi to: Tĩnh mạch cổ, tĩnh mạch dưới lưỡi nổi to
lên. Tĩnh mạch bàng hệ phát triển, các lưới tĩnh mạch nhỏ ở dưới da bình thường
không nhìn thấy hoặc không có, bây giờ nở to ra, ngoằn ngoèo, đỏ hay tím.
Áp lực tĩnh mạch tăng ở
chi trên tới 18-20cm nước, còn
ở chi dưới bình thường.
Tuỳ theo vị trí tắc,
phù và tuần hoàn bàng hệ có thể có mức độ và hình thái khác nhau. Có thể thấy:
Tắc ở trên chỗ vào của
tĩnh mạch đơn: Ứ trệ ở phần trên
lồng ngực cổ gáy. Máu tĩnh mạch ở vùng đó trở về tĩnh mạch chủ qua tĩnh
mạch vú trong tĩnh mạch sống, đổ vào tĩnh mạch đơn qua các tĩnh mạch liên sườn
trên.
Tắc ở dưới chỗ vào của tĩnh
mạch đơn: Chèn ép hoàn toàn
tĩnh mạch chủ trên, làm máu tĩnh mạch bị ứ trệ, dồn ngược dòng tĩnh mạch đơn
lớn vào các nhánh nối tĩnh mạch ngực bụng sâu, đổ vào tĩnh mạch chủ dưới. Khám
có thể thấy tĩnh mạch bàng hệ nổi lên ở nền lồng ngực.
Tắc ở ngay chỗ vào của
tĩnh mạch đơn và tĩnh mạch chủ:
Ứ trệ tuần hoàn rất nhiều. Tĩnh mạch bàng hệ nổi rõ ở tất cả lồng ngực và phần
trên của bụng.
Hội chứng chèn ép tĩnh
mạch chủ dưới:
Tắc ở gần chỗ vào của
tĩnh mạch chủ ưới gây tuần hoàn bàng hệ nhiều ở bụng và nền lồng ngực. Có thể thấy gan to, phù chi dưới, áp lực tĩnh mạch chi dưới tăng cao.
Triệu chứng chèn ép động
mạch dưới đòn. Biên độ mạch không
đều ở hai tay. Huyết áp động mạch cũng không đều ở hai bên cánh tay.
Triệu chứng chèn ép động
mạch phổi: Khó thở khi gắng
sức. Nghe tim có tiếng thổi tâm thu ở liên sườn hai trái. Soi phổi, thấy nhu mô
phổi rất trong, các nhánh động mạch phổi không nhìn rõ. Thường là do túi phồng
động mạch chủ đè vào động mạch phổi.
(3) Triệu chứng chèn
ép thực quản
Khó nuốt hoặc nuốt đau.
Đau ngực phía sau
lưng, lan sang bên hoặc lên trên.
(4) Triệu chứng chèn
ép thần kinh
Chèn ép dây quặt ngược: nói khàn, có khi mất giọng, hoặc giọng đôi.
Chèn ép dây giao cảm cổ: bên tổn thương, đồng tử co lại, kẽ mắt nhỏ
lại, mắt lõm sâu và mi mắt sưng sụp xuống, gò má đỏ (hội chứng Claude
Bernard-Horner).
Đau dây thần kinh liên
sườn.
Đau dây thần kinh hoành: Nấc đau vùng cơ hoành, khó thở do liệt cơ
hoành.
Đứng trước các triệu
chứng lâm sàng trên, cần
phải soi, chụp x quang lồng ngực.
X quang
Có thể nhìn thấy hình
mờ ở một hoặc hai bên trung thất. Hình ảnh x quang không cho phép ta quyết định
chẩn đoán nguyên nhân của chèn ép trung thất nhưng trong một số trường hợp,
hình ảnh đó có thể làm ta hướng
đến một số nguyên nhân.
Ung thư hạch bạch huyết: Hình mờ hai bên trung thất, bờ rõ từ cuống
tim lên đến đỉnh phổi.
Di căn ung thư (gan, dạ dày,
phổi): Hình mờ một bên trung
thất có thể thấy nhiều khối mờ tròn ở phổi.
Bệnh Hodgkin: Hình mờ hai bên trung thất thấy bờ rõ rệt hình
vòng cung. Ngoài ra ta còn có thể thấy các triệu chứng khác của bệnh, hạch to ở
cổ, nách, thượng đòn, bẹn. Sinh thiết có nhiều tế bào Sternberg.
Bệnh bạch cầu mạn tính: Hình mờ hai bên trung thất cân xứng. Ngoài
ra còn có nhiều hạch bạch huyết nổi to nơi khác, xét nghiệm máu thấy bạch cầu
tăng lên rất nhiều.
Viêm trung thất hoá mủ: Ít gặp nhưng cũng cần phải chú ý. Nguyên do
thông thường nhất là viêm thực quản lan sang trung thất. Viêm thực quản thường
xảy ra sau khi người bệnh bị hóc
xương. X quang thấy hai dải
mờ hai bên trung thất, ngoài ra có bệnh cảnh nhiễm khuẩn nặng.
Phân loại
Tuỳ theo vị trí chèn
ép của trung thất, có thể chia ra các loại hội chứng sau đây:
Hội chứng trung thất trên: Ứ huyết tĩnh mạch chủ trên, phù tim ngực cổ.
Hội chứng trung thất dưới: Ứ huyết tĩnh mạch chủ dưới, phù chi dưới,
gan to tĩnh tĩnh mạch bàng hệ ở ngực, bụng.
Hội chứng trung thất sau: Khó nuốt, đau rễ thần kinh kiểu đau dây thần
kinh liên sườn. Có thể tràn dưỡng chấp ổ màng phổi.
Hội chứng trung thất giữa: Khó thở, nói khàn hoặc giọng đôi do liệt dây
thần kinh thanh quản trái.
Hội chứng trung thất trước: Đau ngực nhiều, kiểu đau thắt động mạch
vành. Trên thực tế, các hội chứng đó có thể đứng riêng lẽ hoặc phối hợp.
Nguyên nhân
Nguyên nhân chèn ép
trung thất có thể là:
U ác tính: Ung thư phế quản (thường gặp nhất), ung thư
hạch bạch huyết, bệnh bạch cầu.
U lành tính: Ít gặp.
Viêm trung thất có mủ.
Lao: Có hạch to và viêm trung thất.
Bướu chìm của tuyến giáp
trạng.
Bướu tuyến hung.
Phình quai động mạch chủ.
Thành viên Dieutri.vn