Dieutri.vn
Định nghĩa
Theo GINA 2002 (Global Initiative for Asthma)
thì hen phế quản là một bệnh lý viêm mạn tính của phế quản trong đó có sự tham gia của
nhiều tế bào và nhiều thành phần tế bào; viêm mạn tính gây nên một sự gia tăng
phối hợp sự tăng đáp ứng phế quản dẫn đến những đợt tái diễn của ran rít, khó thở, bó sát lồng ngực và ho đặc biệt xảy ra ban đêm hay vào sáng sớm; những đợt này thường phối hợp với sự tắc
nghẽn phế quản lan rộng nhưng thay đổi, sự tắc nghẽn này thường có tính cách
hồi phục tự nhiên hay do điều trị. Những quan điểm cơ bản trên đây góp phần
tích cực vào việc nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị hen phế quản.
Dịch tễ
Hen phế quản là một bệnh thường gặp, xuất hiện
ở mọi lứa tuổi, trẻ em chiếm đa số so với người lớn, tỉ lệ 2/1. Những nghiên cứu
dịch tể học trong những năm gần đây cho thấy tần suất trung bình khoảng 5 %,
trẻ em dưới 5 tuổi 10 %. Rất nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy tần suất này gia
tăng gấp 3 - 4 lần trong những thập niên qua.
Độ lưu hành hen phế quản tại Pháp trong lứa
tuổi 18 - 65 tuổi là 3,9 % (Charpin và c.s 1987, Maladies respiratoires 1993,
tr 335), tại Ý trong lứa tuổi 5 - 64 tuổi là 5 % (Paolette và c.s 1989,
Maladies respiratoires 1993, tr 335). Tại Việt Nam, ở Hà Nội, trong năm
1991 là 3,3 %, năm 1995 tăng lên 4,3 % (Vương Thị Tâm và c.s trong báo cáo của
hội nghị tổng kết 5 năm 1991 - 1995 của Viện chống lao và bệnh phổi); ở thành
phố Hồ Chí Minh, độ lưu hành hen phế quản là 3,2 (1,39 % (Phạm Duy Linh và c.s
báo cáo trong Hội thảo Y dược học lần thứ 5 tại thành phố Hồ Chí Minh từ ngày
25 - 27/11/1996), ở thành phố Huế, độ lưu hành hen phế quản năm 2000 là 4,58 (1,12%
(Lê Văn Bàng).
Nguyên nhân
Hen phế quản dị ứng
Hen phế quản dị ứng không nhiễm khuẩn:
Dị ứng nguyên hô hấp: thường là bụi nhà, các loại bọ
nhà như Dermatophagoides ptéronyssimus, bụi chăn đệm, các lông móng các loài gia súc như chó, mèo, chuột, thỏ v.v...; phấn hoa, cây cỏ, hay nghề nghiệp trong các xưởng dệt.
Dị ứng nguyên là thuốc aspirine, kháng viêm không steroide, pennicilline; trứng, một số phẩm nhuộm màu và chất giữ thực phẩm.
Hen phế quản dị ứng nhiễm khuẩn:
Vi khuẩn thường gặp là streptococcus
pyogenes (liên cầu nhóm A), streptococcus pneumoniae, staphylococcus aureus...
Virus: Thường gặp là virus hợp bào hô hấp,
parainfluenza, cúm.
Nấm: Như nấm Cladosporium hay Alternaria,
các nấm mốc.
Hen phế quản không do dị ứng
Di truyền: Tiền sử gia đình, liên quan
đến kháng nguyên hòa hợp tổ chức HLA (MHC).
Gắng sức: Khi gắng sức và nhất là khi ngưng gắng sức.
Thời tiết: Không khí lạnh.
Rối loạn nội tiết: Trong thời kỳ trưởng thành,
thời kỳ trước kinh nguyệt, lúc mang thai, thời kỳ mãn kinh.
Yếu tố tâm lý: Tâm trạng lo âu, mâu thuẫn cảm
xúc, chấn thương tình cảm.
Cơ chế sinh bệnh
Hen phế
quản xảy ra qua 3 quá trình
(1) Viêm phế quản
Là quá trình cơ bản trong cơ chế hen phế quản
bắt đầu từ khi dị ứng nguyên lọt và cơ thể tạo ra phản ứng dị ứng thông qua vài trò của kháng thể lgE. Những tế bào gây viêm
phế quản bao gồm tế bào mast, bạch cầu đa nhân (ái toan, ái kiềm, trung tính),
đại thực bào phế nang, bạch cầu đơn nhân, lympho bào và tiểu cầu
phóng thích các chất trung gian hóa
học gây viêm như histamine, sérotonine, bradykinine,
thromboxane, prostaglandine, leucotriène, PAF và một số interleukine.
(2) Co thắt phế quản
Do tác động của các chất trung gian hóa học gây viêm và vai trò của hệ thần kinh tự động
gồm hệ cholinergic, hệ adrenergic và hệ không cholinergic không adrenergic.
(3) Tăng phản ứng phế quản
Xảy ra sau khi dị ứng nguyên vào cơ thể, qua tác động của các tế bào gây viêm. Đây là một
trạng thái bệnh lý không đặc hiệu cho hen phế quản.
Triệu chứng lâm sàng
cơn hen phế quản điển hình
Giai đoạn khởi phát
Cơn hen phế quản thường xuất hiện đột ngột vào
ban đêm, nhất là nửa đêm về sáng; thời gian xuất hiện tùy thuộc vào nhiều yếu tố như tiếp xúc dị ứng nguyên hô hấp, thức ăn,
gắng sức, không khí lạnh, nhiễm virus đường hô hấp trên, v.v... Các tiền triệu như ngứa mũi, hắt hơi, chảy nước mũi, nước mắt, ho từng cơn,
bồn chồn v.v... nhưng không phải lúc nào cũng có.
Giai đoạn lên cơn
Sau đó, cơn khó thở xảy ra, khó thở kỳ thở ra xuất hiện nhanh, trong cơn hen lồng ngực bệnh nhân căng ra, các cơ hô hấp phụ nổi rõ, có thể có tím ở đầu tay chân sau đó lan ra mặt và toàn thân. Nhịp thở chậm, tiếng thở rít kéo dài. Đứng
xa có thể nghe tiếng rít hay sò sè của bệnh nhân. Nghe phổi có nhiều ran rít và ran ngáy. Cơn khó thở dài hay ngắn tùy theo từng bệnh nhân.
Giai đoạn lui cơn
Sau vài phút hay vài giờ, cơn hen giản dần,
bệnh nhân ho khạc đàm rất khó khăn,
đàm đặc quánh, có nhiều hạt nhỏ như hạt trai. Lúc này nghe phổi phát hiện được nhiều ran ẩm, một ít ran ngáy. Khạc đàm nhiều báo hiệu cơn hen đã hết.
Giai đoạn giữa các cơn
Giữa các cơn, các triệu chứng trên không còn.
Lúc này khám lâm sàng bình thường. Tuy nhiên nếu làm một số trắc nghiệm như gắng sức, dùng acétycholine, thì vẫn phát hiện
tình trạng tăng phản ứng phế quản.
Triệu chứng cận lâm
sàng
Thăm dò chức năng hô hấp
Rối loạn thông khí:
Đo FEV1 (thể tích thở ra tối
đa trong giây đầu) và FEV1/FVC (tỉ số Tiffeneau):
Trong cơn giảm dưới 80% so với lý thuyết.
Đo PEF (lưu lượng thở ra đỉnh): Trong cơn giảm
dưới 80% so với lý thuyết.
Khí máu:
Đo PaO2, PaCO2, SaO2, và pH máu, đây là xét nghiệm
bổ sung để đánh giá mức độ suy hô
hấp.
Các xét nghiệm về dị ứng:
Test da: Dùng phương pháp lảy da, da đỏ là dương tính.
Test tìm kháng thể: Như kháng thể ngưng
kết, kháng thể kết tủa thường là lgG, lgM.
Định lượng lgE toàn phần và lgE đặc hiệu.
Phim lồng ngực:
Trong cơn hen, lồng ngực căng phồng, các
khoảng gian sườn giãn rộng, cơ hoành hạ thấp, phổi tăng sáng, rốn phổi đậm.
Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định
Tiền sử cá nhân về dị ứng:
Như chàm, mày đay, có tiếp xúc với dị ứng
nguyên trước đó, tièn sử gia đình về hen, dị ứng hoặc các yếu tố khác như gắng
sức, lạnh v.v...
Hội chứng hẹp tiểu phế quản do co thắt:
Khó thở chậm, chủ yếu kỳ thở ra, phổi nghe
nhiều ran rít, ran ngáy, phim phổi cho thấy hình ảnh khí phế thủng.
Tính chất cơn khó thở:
Cơn khó thở có tính chất hồi qui, đáp ứng tốt
với thuốc giãn phế quản, tét phục hồi phế quản với đồng vận bêta 2 dương tính
tức sau khi dùng đồng vận bêta 2 thì FEV1 > 200ml và FEV1/FVC > 15%.
Chẩn đoán phân biệt
Hen tim:
Bệnh nhân có tiền sử các bệnh van tim như hẹp
van hai lá, hở van động mạch chủ, cao huyết áp, khó thở nhanh, cả 2 kỳ, phổi
nghe nhiều ran ứ dịch, rất ít ran ngáy, phim phổi cho thấy hình ảnh ứ dịch, tâm
điện đồ để xác minh thêm nguyên nhân.
Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính:
Có tiền sử bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính thường
do thuốc lá, có hội chứng nhiễm trùng, khó thở nhanh, không có tiền sử cá nhân
và gia đình về dị ứng hay hen, phổi nghe ran ẩm to hạt kèm ran rít và ran ngáy,
tét phục hồi phế quản với đồng vận bêta 2 âm tính.
Mức độ trầm trọng
BẬC 1
Những triệu chứng
xảy ra < 1 lần / tuần.
Những đợt bộc phát
ngắn.
Những triệu chứng
ban đêm < 2 lần / tháng.
FEV1 hay PEF ≥ 80%
so với lý thuyết
PEF hay FEV1 biến
thiên < 20%
|
BẬC 2
Những triệu chứng
xảy ra > 1 lần / tuần nhưng < 1 lần / ngày.
Những đợt bộc phát
có thể ảnh hưởng đến hoạt động và giấc ngủ.
Những triệu chứng
ban đêm > 2 lần / tháng.
FEV1 hay PEF ≥ 80%
so với lý thuyết.
PEF hay FEV1 biến
thiên 20 30%.
|
BẬC 3
Những triệu chứng
xảy ra hằng ngày.
Những đợt bộc phát
ảnh hưởng đến hoạt động và giấc ngủ.
Những triệu chứng
ban đêm > 1 lần / tuần.
Hàng ngày phải sử
dụng thuốc khí dung đồng vận (2 tác dụng ngắn
FEV1 hay PEF 60 -
80% so với lý thuyết
PEF hay FEV1 biến
thiên > 30%
|
BẬC 4
Những triệu chứng
xảy ra hằng ngày.
Thường xuyên có
những đợt bộc phát.
Những triệu chứng
thường xảy ra ban đêm.
Giới hạn những hoạt
động thể lực.
FEV1 hay PEF ≤ 60%
so với lý thuyết.
PEF hay FEV1 biến
thiên > 30%
|
Biến chứng
Biến chứng cấp
Hen phế quản cấp nặng:
Có thể xuất phát từ hội chứng đe dọa hen phế
quản cấp nặng, hội chứng nầy có thể tương ứng với tình trạng cơn hen cấp không
đáp ứng với điều trị thông thường và nặng dần; hoặc xảy ra rất cấp đôi khi
trong vòng vài phút. Đó là tình trạng nguy cấp có tiên lượng sinh tử trong thời
gian ngắn.
Sự chẩn đoán phải được thực hiện sớm và có
tính cấp cứu.
Những dấu hiệu hô hấp:
Tình trạng nguy cấp hô hấp với tím, vã mồ hôi,
khó thở nhanh nông, tần số trên 30 lần/phút kèm dấu cơ kéo các cơ hô hấp.
Rối loạn tri giác: lo âu kèm vật vả hay ngược
lại lơ mơ có thể đi dần vào hôn mê.
Có thể thở chậm chứng tỏ có sự suy kiệt cơ hô
hấp và báo trước sự ngưng hô hấp.
Nghe phổi: Im lặng cả hai bên phổi.
Lưu lượng thở ra đỉnh dưới 150 lít/phút.
PaO2 < 60 mmHg, PaCO2 > 45 mmHg.
pH máu < 7,38.
Những dấu hiệu tim mạch:
Mạch nhanh thường trên 120 lần/phút, mạch chậm là dấu chứng rất nặng báo hiệu ngưng tuần
hoàn.
Mạch nghịch lý làm mạch giảm biên độ trong kỳ
thở vào, có thể xác định bằng cách đo hiệu áp tâm thu giữa kỳ thở ra và kỳ thở
vào thường trên 20 mmHg.
Tâm phế cấp với dấu chứng suy tim phải.
Huyết áp có thể tăng liên quan đến sự tăng
PaCO2, huyết áp hạ trong những trường hợp quá nặng.
Tràn khí màng phổi:
Do vỡ bóng khí phế thũng.
Nhiễm khuẩn phế quản - phổi:
Thường do Streptococcus pneumoniae,
Haemophilus influenza, staphylococcus aureus,
mycoplasma pneumonniae, legionella pneumophila.
Biến chứng mạn
Khi phế thủng đa tiểu thùy:
Thường có khó thở khi gắng sức, khi làm việc nặng, tím môi và đầu chi, lồng
ngực biến dạng hình ức gà hay hình thùng, gõ vang, âm bào giảm.
Thể tích cặn và dung tích cặn chức năng tăng, có rối loạn thông khí phối hợp, PaO2 chỉ giảm ở giai đoạn
sau và PaCO2 chỉ tăng ở giai đoạn sau.
Suy hô hấp mạn:
Tím và khó thở: Thở nhanh nông, thở ra môi
khép chặt, dấu hiệu HOOVER (Giảm đường kính phần dưới lồng
ngực khi hít vào).
Suy hô hập mạn nghẽn có giảm rõ các thể tích cặn, các lưu lượng trung bình và lưu lượng đỉnh,
tăng độ giãn phổi, suy hô hấp mạn hạn chế có giảm thể tích phổi, giảm độ giãn
phổi, tùy theo mức độ suy hô hấp mà PaO2 dưới 65 - 70 mmHg và PaCO2 trên
43mmHg.
Khó thở càng ngày càng tăng dần từ khó thở khi gắng sức, đến khó thở khi leo
lên dốc hay lên cầu thang, đến khó thở khi đi nhanh trên đường phẳng, đến khó
thở thì đi chậm trên đường phẳng, cuối cùng khó thở khi làm việc nhẹ như vệ
sinh, cởi áo quần, về sau khó thở khi nghỉ ngơi. Tím môi, đầu chi, mặt nếu nặng
tím toàn thân.
Triệu chứng suy tim phải: Trên lâm sàng và
trên cận lâm sàng.
PaO2 giảm đến 70 mmHg, PaO2 tăng 50-80mmHg,
SaO2 < 75 %, pH máu có thể giảm < 7,2.
Điều trị
Xử trí hen phế quản theo các bậc
Bậc 1 (Hen phế quản cách khoảng):
Trong hen phế quản cách khoảng, độ trầm trọng
của đợt bộc phát cấp thay đổi theo từng bệnh nhân và theo thời gian. Những đợt
bộc phát cấp nặng rất ít gặp.
Thuốc sử dụng trong hầu hết các bệnh nhân hen
phế quản cách khoảng nhẹ là thuốc đồng vận β2 khí dung tác dụng nhanh, ngoài ra
có thể sử dụng cromone hay thuốc kháng leukotriene. Thuốc kháng cholinergic,
đồng vận β2 uống, hay theophylline tác dụng ngắn có thể dùng xen kẻ với thuốc
đồng vận β2 khí dung, mặc dù những loại thuốc này có thời gian bắt đầu tác dụng
chậm và hay là có nguy cơ có nhiều tác dụng phụ hơn. Thường thường những đợt
bộc phát cấp nặng hơn hay kéo dài hơn có thể đòi hỏi sự sử dụng một đợt điều
trị ngắn bằng glucocorticoide uống.
Bậc 2 (Hen phế quản dai dẳng nhẹ):
Những bệnh nhân bị hen phế quản dai dẳng nhẹ
cần phải được sử dụng thuốc hằng ngày để hoàn thành và duy trì sự kiểm
soát hen phế quản. Trị liệu đầu tiên là thuốc kháng viêm dùng hằng ngày. Điều
trị chọn lựa một loại glucocorticoide khí dung (200 - 500μg Beclometasone
dipropionate, hay Budenoside, 1000 - 250μg fluticasone chia 2 lần/ngày). Thuốc
dùng xen kẽ là theophylline thải chậm, cromones, và kháng leukotriene, nhưng
những loại thuốc này kém hiệu quả hơn glucocorticoide khí dung hay chỉ có hiệu
quả ở một số bệnh nhân. Điều trị lâu dài theophylline thải chậm cần phải theo
dõi nồng độ theophylline trong huyết thanh với nồng độ điều trị là 5 - 15μg/ml.
Thêm vào điều trị đều đặn trên, bệnh nhân hen
phế quản bậc 2 có thể sử dụng một loại thuốc đồng vận β2 khí dung tác dụng
nhanh, nhưng không được quá 3 - 4 lần/ngày.
Những thuốc giãn phế quản khác có thể được sử
dung như thuốc kháng cholinergic, đồng vận β2 uống tác dụng nhanh, hay
theophylline tác dụng ngắn, mặc dù những loại thuốc này có thời gian bắt đầu
tác dụng chậm và hay là có nguy cơ có nhiều tác dụng phụ hơn.
Nếu trị liệu lâu dài được bắt đầu với
theophylline thải chậm, cromone hay kháng leukotriene, mà những triệu chưng tồn
tại sau 4 tuần điều trị, thì glucocorticoide khí dung phải được sử dụng.
Glucocorticoide khí dung có thể được sử dung ban đầu thay vì những loại thuốc
khác, hay sử dụng kèm với nhau.
Bậc 3 (Hen phế quản dai dẳng vừa):
Những bệnh nhân bị hen phế quản dai dẳng vừa
cần phải dùng thuốc hằng ngày để đạt được và duy trì sự kiểm soát hen phế quản.
Điều trị chọn lựa là phối hợp một glucocorticoide khí dung (200 - 1000 μg
beclometasone dipropionate, 400 - 1000 μg budenoside, 250 - 500 μg fluticasone
chia 2 - 3 lần/ngày) với một đồng vận β2 khí dung tác dụng dài 2 lần/ngày.
Một phối hợp glucocorticoide khí dung với một
đồng vận β2 khí dung tác dụng dài là một phối hợp tốt và tiên lợi.
Mặc dầu phối hợp glucocorticoide khí
dung với một đồng vận β2 khí dung tác dụng dài là có hiệu quả nhất, nhưng những
bệnh nhân hen phế quản dai dẳng vừa có thể sử dụng xen kẻ những loại thuốc như
theophylline thải chậm, thuốc đồng vận β2 uống tác dụng dài, thuốc kháng
leukotriene.
Thêm vào trị liệu đều đặn hằng ngày, thuốc
đồng vận β2 khí dung tác dụng nhanh có thể được sử dung để cắt cơn, nhưng không
được quá 3 - 4 lần/ngày. Thuốc kháng cholinergic khí dung, thuốc đồng vận β2
uống tác dụng nhanh, hay theophylline tác dụng ngắn có thể thay thế cho thuốc
đồng vận β2 khí dung tác dụng ngắn, mặc dù những loại thuốc này có thời gian
bắt đầu tác dụng chậm và hay là có nguy cơ có nhiều tác dụng phụ hơn.
Bậc 4 (Hen phế quản dai dẳng nặng):
Trong hen phế quản dai dẳng nặng, mục tiêu
điều trị là đạt được kết quả tốt nhất - những triệu chứng tối thiểu, cần sử
dụng thuốc đồng vận β2 khí dung tác dụng nhanh tối thiểu, PEF tốt nhất, tối
thiểu cơn hen xuất hiện khoảng 1 lần / ngày, và tác dụng phụ tối thiểu. Trị
liệu trước tiên là glucocorticoide khí dung liều cao hơn (> 1000 μg
beclometasone dipropionate / ngày phối hợp với đồng vận β2 khí dung tác dụng
dài 2 lần / ngày.
Thuốc đồng vận β2 khí dung tác dụng dài là
thuốc được chọn lựa, nhưng có thể sử dụng những loai thuốc xen kẽ như
theophylline thải chậm, thuốc đồng vận β2 uống tác dụng dài, thuốc kháng
leukotriene. Những loại thuốc này có thể thêm vào trị liệu phối hợp giữa
glucocorticoide khí dung liều cao với đồng vận β2 khí dung tác dụng dài. Thuốc
đồng vận β2 khí dung tác dụng nhanh cũng được sử dụng khi cần. Nếu cần,
glucocorticoide uống có thể được sư dụng với liều thấïp nhất, tốt nhất chỉ cho
một lều duy nhất vào buổi sáng để giảm thiểu những tác dụng phụ hệ thống.
Glucocorticoide khí dung liều cao có thể được
sử dụng, nhưng sự sử dụng này không được chứng ming rõ ràng là đã gây những tác
dụng phụ hệ thống ít hơn so với sự sử dụng một liều tương đương glucocorticoide
uống. Nhưng điều trị này rất tốn kem và có thể gây nên những tác dụng phụ tại
chỗ như đau miệng. Không có một chứng cớ nào từ những nghiên cứu khuyến cáo nên
sử dụng glucocorticoide khí dung trong hen phế quản ổn định ở người lớn.
Điều trị hỗ trợ
Liệu pháp oxy: khi cần thở oxy khoảng 2l/phút.
Kháng sinh: Chỉ dùng khi có bội nhiễm phế quản
- phổi.
Điều trị cơn hen phế quản cấp nặng
Liệu pháp oxy: Phải thực hiện liền không cần chờ kết
quả khí máu, cung lượng cao 6l/phút nếu không có suy hô hấp mạn, nếu có suy hô
hấp mạnh cung lượng thấp 2l/phút.
Thuốc giãn phế quản:
Thuốc kích thích bêta 2: tiêm dưới da
Terbutaline (Bricanyl) 1 ống 0,5 mg là biện pháp cấp cứu ban đầu ngay tại nhà
bệnh nhân.
Khi nhập viện thì dùng khí dung Salbutamol, 1
ml chứa 5 mg hòa 4ml dung dịch sinh lý qua máy khí dung cho hít trong 10 - 15
phút, có thể lập lại tùy diễn tiến lâm sàng, 30 phút một lần. Có thể dùng
Salbutamol tiêm tĩnh mạch liên tục bằng ống tiêm tự động, liều lượng ban đầu
thường là 0,1 - 0,2 μg/kg/phút, tăng liều từng 1 mg/giờ theo diễn tiến lâm
sàng.
Adrénaline:
Chỉ định chi các thuốc kích thích bêta 2 bị
thất bại; liều lượng khởi đầu thường là 0,5 - 1 mg/giờ tiêm tĩnh mạch bằng ống
tiêm tự động.
Aminophylline:
Có thể kết hợp, dùng bằng đường chuyền tĩnh
mạch với dung dịch Glucoza 5 % liên tục với liều lượng 0,5 - 0,6 mg/kg/giờ.
Kháng sinh: Được sử dụng khi có nhiễm trùng phế quản - phổi kèm theo,
có thể dùng Cephalosporines, Macrolides hay Fluoroquinolones hô hấp.
Corticosteroide:
Methylprednisolone (Solumedrol) 60 - 80mg mỗi
6 giờ.
Thở máy:
Được chỉ định trong thể ngạt cấp hay trong thể
mà điều trị bằng thuốc bị thất bại gây suy kiệt cơ hô hấp.
Theo dõi bệnh nhân
Mục đích điều trị cơn hen cấp là làm thế nào
để các triệu chứng giảm nhanh và cải thiện chức năng hô hấp càng nhanh càng
tốt, đồng thời giảm thiểu tối đa tác dụng phụ của thuốc.
Nếu điều trị ban đầu không có kết quả, nếu
PaCO2 còn thấp, thì có thể tiếp tục điều trị tại bệnh phòng; nhưng nếu
PaCO2 tăng và pH bị toan hóa thì bệnh nhân phải được chuyển đến phòng hồi
sức để thực hiện thông khí hỗ trợ.
Đối với hen phế quản cấp nặng là một cấp cứu
nội khoa, bắt buộc phải nhập viện gấp vào khoa hồi sức hô hấp. Nếu chẩn đoán là
hội chứng đe dọa hen phế quản cấp nặng hay hen phế quản cấp nặng hay hen phế
quản cấp nặng ở nhà thì phải đưa ngay bệnh nhân đến khoa hồi sức bằng xe cấp
cứu có trang bị.
Phòng ngừa cơn hen phế quản tái phát
Hiện nay theo GINA người ta khuyến cáo
nên dùng Seretide trong điều trị duy trì kiểm soát cơn hen phế quản và
người ta nhận thấy những bệnh nhân hen phế quản được điều trị bằng Seretide rất
ít bị xảy ra cơn hen phế quản nặng.
Phòng tránh các yếu tố bất lợi của môi trường
Tránh các hoạt động thể lực không cần thiết.
Tránh tiếp xúc bụi, khói nhất là khói thuốc lá
và các chất kích thích khác.
Tránh tiếp xúc với những người bị nhiễm trùng
hô hấp.
Giữ môi trường trong lành.