Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm là một Tiến sĩ Y khoa tốt nghiệp tại
Pháp, không rõ sinh năm nào, chỉ biết ngày 1-7- 1949 được bổ nhiệm làm Bộ
Trưởng Y Tế thời chính phủ Bảo Đại. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực Giáo dục
Chính trị, Văn Học, có nhiều bài viết trên các báo thời Pháp thuộc, quen biết
với nhiều người trong các giới chính quyền cũng như các văn nhân, nghệ sĩ. Ông
có mở phòng mạch ở Đà Lạt, rất được nhân dân thương mến vì tận tụy với bệnh
nhân, nhất là bệnh nhân nghèo. Nơi đây ông là bạn chí cốt với nhà văn đứng đầu
nhóm Tụ Lực Văn Đoàn là Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Khi Nhất Linh tự vẫn do
chống chính quyền Diệm ông tận tình theo sát tới khi Nhất Linh mất. Vì nổi
tiếng liêm khiết và hết lòng với bệnh nhân nên ở Đại Học Y khoa Huế ông được cử
làm giáo sư phụ trách giảng dạy môn Nghĩa Vụ Luận. Năm 1968 trường Đại Học Y
Khoa Saigon mời ông diễn thuyết về đạo đức y khoa tại trường này. Tài liệu hôm
nay chính là bản văn ông diễn thuyết ngày đó. trích trong cuốn Lời khuyên sinh
viên Y Khoa do ông chủ biên và do trung tâm học liệu bộ Giáo Dục xuất bản năm
1972. Tôi xin chép lại cho các bạn xem. Những ý tưởng trong bài tôi đã đọc trên
30 năm hôm nay xem lại thấy như mới, vô cùng cảm động. Các bạn hãy giữ nó làm
chỉ nam giống như tôi đã giữ nó trên 30 năm nay. Đối với những người đồng cảm
thì những lời trong bài “ngân lên vang vọng hòa nhịp với con tim người
xem, gây ra một cảm giác không gì sánh được”.
Khác với các bài giáo điều BS Phiếm trình bày bài nói chuyện rất
chân tình, thực tế. Tác giả nhấn mạnh đến khía cạnh TRÁCH NHIỆM chính điều này
đã làm nghề y khác hẳn những nghề khác, vinh nhục cũng từ đó mà ra. Nhiều người
từ góc độ của nghề khác phê phán so bì với ngành y chúng ta, họ quên rằng bản
chất của nghề y hoàn toàn khác hẳn các nghề khác. Mong rằng các bạn khi đọc
xong lời khuyên này thì hãy còn chút gì đấy đọng lại trong tâm tư, đừng để gió cuốn đi.
Vì bài khá dài nên tôi xin trích đăng làm vài kỳ để các bạn
“tiêu hóa” dần dần, nhân tiện chú thích một số danh từ hay ý niệm hơi xưa cho
rõ nghĩa.
MẤY
LỜI KHUYÊN SINH VIÊN Y KHOA
BS Nguyễn Hữu Phiếm
(Buổi
nói chuyện do trường Đại Học Y khoa Huế tổ chức ngày 29-6-1968 Tại Trung Tâm Y
Khoa Đại Học SAIGON)
Các bạn sinh viên thân mến.
Nghề thuốc mà các bạn đã chọn là một nghề cao đẹp nhất, và chính
để chứng tỏ điều đó nên mới có buổi nói chuyện hôm nay một buổi nói chuyện thân
mật giữa một người thày thuốc-đã hành nghề trên 30 năm-với những người thày
thuốc tương lai, giữa một người anh cả với các em sắp sửa vào nghề, bởi dù muốn
dù không các bạn và tôi, chúng ta từ bao nhiêu thế hệ nay đã được coi như thuộc
về một gia đình-đại gia đình y giới- và riêng về điểm đó, ngay từ bây giờ, các
bạn đã thấy nghề thuốc không giống như các nghề tự do khác.
Các bạn thân mến.
Các bạn đã chọn nghề thuốc với tất cả một tấm lòng nhiệt hứng,
hăng say của tuổi thanh xuân, nhưng thử hỏi đã mấy ai chịu tìm hiểu những lý do
thúc đẩy mình vào con đường ấy?
Có một số bạn trẻ chọn nghề này, coi như một lẽ đương nhiên để
nối nghiệp cha anh đã từng là thầy thuốc.
Có một số, vì ham thích và cũng như mọi ham thích, khó lòng mà
giải thích được tại sao. có thể vì hồi nhỏ ốm đau, đã được người thày thuốc tận
tâm săn sóc, hoặc được mục kích những cảnh thập tử nhất sinh mà được bàn tay
người bác sĩ cứu sống.
Đối với một số nữa-rất hiếm- có lẽ làm nghề thuốc vì đó là một thiên chức (une vocation): ngoài mảnh bằng bác sĩ để hành
nghề ra, còn muốn làm một cái gì khác nữa, như trở thành một nhà khảo cứu, một
vị bác học hoặc một giáo sư đại học.
Thiên chức theo định nghĩa, là một tiếng nói tự đáy lòng phát
ra, nó thúc giục ta làm một việc nào đó, Giáo sư Maranon bảo là: ”một loại đam mê
có tính chất của tình thương, kẻ nào có một thiên chức coi vật mình yêu như một
mụa đích độc hữu, không thể chia xẻ được. Họ phụng sự mối tình yêu đó mà tuyệt
đối không vụ lợi” và vẫn theo lời Maranon “sở dĩ nghề thuốc suy đồi vì
thanh niên, khi chọn nghề đó không phải vì có thiên chức thật sự, mà chỉ vì hy
vọng có một địa vị cao sang”.
Người ta đã điều tra một số sinh viên y khoa để biết tại sao họ
chọn nghề thuốc: trong số 100 sinh viên có tới 70 người trả lời: Không biết.
Còn lại 30 có người bảo: học thuốc để tìm những thỏa mản tri thức, hoặc vì có một niềm tin hoặc vì nghề đó đã danh giá lại kiếm được nhiều tiền
Tôi biết một số thanh niên sau khi đậu xong Tú Tàilưỡng lự không
biết chọn ngành nào ở Đại Học bèn chọn đại Y khoa vì nghe lời cha mẹ hoặc họ hàng thân
thuộc-những người này không phải là thày thuốc, không hiểu nghề thuốc là gì mà
chỉ nhìn thấy một khía cạnh sai lầm là: nhà lầuxe hơi tiền bạc…. Những người đó
xem nghề thuốc như nghề đi buôn và cho rằng học hành vất vả mới giật được mảnh
bằng bác sĩ thì dĩ nhiên phải được đền bù xứng đáng, phải được thụ hưởng. Còn
bổn phận của mình những gì, trách nhiệm ra sao họ đâu có biết hoặc nghĩ tới?Đối
với hạng người này tôi xin nhắc lại ở đây câu nói của P. Le Gendre”
“Kẻ nào chỉ làm nghề thuốc với hi vọng làm giàu, kẻ đó sẽ thất
vọng, vì nghề thuốc chỉ được trọng vọng khi nào chúng ta có một tinh thần vị
tha, hỉ xả. ”
Các bạn thân mến
Khi các bạn chọn nghề này, dĩ nhiên là để sinh sống, để nuôi gia
đình, để hưởng một đời sống sung túc. tuy nhiên chúng ta không được quan niệm
nghề thuốc như một nghề để làm tiền, vì nếu các bạn hành nghề đúng đắn ít khi các bạn có thể giàu được.
Ngoài vấn đề mưu sinh ra tất còn có một lý do nào khác nữa nó
thúc đẩy các bạn lựa chọn cái nghề đó. Tôi không dám dùng những danh từ quá to
tát như: “cứu nhân độ thế” mà chỉ nói; sở dĩ làm nghề thuốc là để mong xoa dịu
được phần nào những đau khổ của đồng bào, muốn giúp ích cụ thể cho xã hội.
Có bạn học thuốc, như trên vừa nói, để thỏa mãn tri thức, thỏa mãn sự tò mò, những biết những kỳ quan
của bộ máy con người ta, muốn tháo nó ra từng mảnh để xem bên trong có những
gì, tại sao nó chạy, hoặc muốn tìm cho ra hạt bụi nào đó đã làm cho bộ máy kia
tắc, rồi ngưng chạy…
Đối với sinh viên y khoa, còn gì vui sướng và hồi hộp bằng lần
đầu tiên ở trong bệnh viện, chỉ nhờ có nghe và gõ lên ngực bệnh nhân mà đã đoán
được rằng trong màng phổi có nước và khi lấy chiếc kim chọc vào phổi thì quả
nhiên thấy có nước thật.
Không những học để biết mà còn để phụng sự nữa. Còn niềm vui gì bằng sau một thời gian
vật lộn với tử thần người thầy thuốc đã đẩy lui được bệnh và trao trả cho bà me
đứa con thân yêu của bà.
Người ta muốn phê bình sao thì phê bình, một người thày thuốc
sau một ngày làm lụng vất vả, bảo họ “hái ra tiền” chẳng hạn, nhưng tôi
dám chắc ngoài việc chữa bệnh ra, còn phải có những động cơ nào khác nó thúc
đẩy họ chứ không riêng gì tiền bạc. Họ không thể không băn khăn lo lắng mỗi khi
rời một căn nhà, trong đó có một tính mạng đang bị đe dọa, hoặc đó là tính mạng
của một người cha, cột trụ của cả một gia đình, hoặc tính mạng của một người mẹ
với đàn con thơ dại đang cần có người săn sócdạy dỗ, hoặc tính mạng của một đứa
hài nhi, chỉ có quyền sống chứ không được chết yểu…
Mối băn khăn đó đôi khi còn ám ảnh người thày thuốc trong bửa ăn
giấc ngủ của họ.
Người thày thuốc không thể không có những suy tư sau khi ngồi
bên giường bệnh kiên nhẫn nghe lời kể lể tâm sự của thân chủ mình, rồi cố tìm
một lời nói dịu dàng để khuyên nhủ, ngõ hầu xoa dịu được phần nào những nỗi khổ
đau về tinh thần, những khắc khoải hoặc dằn vặt của một lương tâm đang bị cắn
rứt….
Người thày thuốc không những chỉ đem lại cho ta sức khỏe, họ
giúp ta sống đã đành nhưng nhiều khi họ giúp ta nhắm mắt cho yên nữa.
Chữa khỏi đã vậy, nhưng còn những khi thất bại ?
Đã mấy ai thấu hiểu được nỗi khổ của người thày thuốc, dù ham
tiền mấy đi nữa, sau khi thâu canh ngồi bên một sản phụ, những mong cứu sống
được cả mẹ lẫn con, hoặc ít nữa một trong hai người, nhưng rút cuộc không cứu
nỗi ai hết. Và trong khi người thày thuốc ấy, khác nào một kẻ bại trận, rửa
tay-hai bàn tay đẩm máu và rung lẩy bẩy- thu xếp đồ dùng cho vào cặp rồi lủi
thủi ra về, mặt mũi phờ phạ, đầu chóang mắt hoa, có những con mắt ngấn lệ, đầy
đau thương, có khi đầy oán hận, nhìn theo và biết đâu không lên án họ. ? Ôi,
VINH NHỤC của nghề thuốc!
Người ta muốn phê bình người thày thuốc ra sao tùy ý, nhưng tôi
dám chắc, trong khi hành nghề, họ không thể không có một niềm tin, một tia hi
vọng, một ngọn lửa thiêng nào đó trong lòng. Nói tóm lại, thế nào họ cũng phải
có một nhiệt hứng khiến họ cảm thấy sung sướng khi tìm ra căn bệnh. Một niềm
vui khi phụng sự và thành công.
Duhamel đã nói”Không có nghề nào cao đẹp và buồn bằng nghề
thuốc, một nghề đói hỏi nhiều bổn phận, nhiều trách nhiệm tinh thần, nhưng
chính trách nhiệm đó, nhất là trách nhiệm tinh thần, nó làm cho nghề chúng ta
cao đẹp. ”
Những trách nhiệm của người thày thuốc ở vào thời đại này rất nặng
nề, vì không nói tất các bạn cũng rõ là chúng ta hiện đang sống trong một kỷ
nguyên thật là huyền ảo, khoa học tiến quá mau, ngoài sức tưởng tượng của con
người, ” đã làm cho chúng ta trở thành những bậc THẦN THÁNH
trước khi chúng ta xứng đáng làm người”(Jean Rostand)
Thật thế: chỉ trong vòng ba bốn chục, y học đã tiến triển và
khác hẳn bốn ngàn năm trước và nếu ngoảnh lại nhìn chặng đường đã qua, chúng ta
không thể không giật mình kinh ngạc.
Giáo sư Jean Bernard đã viết không phải là quá đáng:
‘”Một người thày thuốc ở thời tiền chiến, vắng mặt sau một
thời gian 30 năm và nay trở vềsẽ bở ngở không khác gì một bạn đồng nghiệp của
ông sống dưới thời Hippocrate nay tái sinh trước ngày thế chiến thứ hai”
Tuy nhiên chúng ta những kẻ hậu sinh, không được quên ơn các bậc
tiền bối đã có công lớn với y học, hoặc ít ra cũng nhớ đến tên tuổi những vị
đó, như Pasteur, Claude Bernard, Lister, Yersin, Fleming …vv.
Nói về ngoại khoacách đây trên 40 năm một danh y về khoa giải
phẫu, giáo sư J. L Faure trong bài diễn văn khai mạc một cuộc hội nghị quốc tế
đã nói:
“Ngày nay khoa giải phẫu đã lên tới chỗ tuyệt đỉnh rồi, khó
lòng mà tiến hơn nữa”
Tuy nhiên trên lãnh vực y khoa, ai dám tự hào mình là một nhà
tiên tri, và ngày nay -1968- chúng ta có thể lập lại câu nói và biết đâu trong
vài ba năm nhận xét của chúng ta lại không đúng nữa.
Các bạn tất đã biết nhờ có thuốc mê (tìm ra năm 1816 ở Hoa Kỳ)
mà người ta có thể giải phẫu với những điều kiện mới. Nhất là sau cuộc cách
mạng do Pasteur khởi xướng, cho biết nguyên nhân của phần nhiều bệnh là vi
trùng, rồi nhờ có phương pháp sát trùng (antiseptie) của Lister, nhất là phương
pháp phòng hủ (asepsie) của Terrier, số người chết đi vì giải phẫu giảm đi rất
nhiều. Đồng thời các nhà giải phẫu táo bạo hơn, dám đi sâu vào trong cơ thể,
nào mổ ruột, mổ dạ con, nào giải phẫu xương, khớp xương, …vvv
Mặc dầu khoa giải phẫu tiến bộ rất mau, mặc dầu kỹ thuật giải
phẫu đã được hoàn bị, vẫn còn có người chết vì giải phẫu do những xáo trộn
trong cơ thể. Quan trọng hơn hết là xáo trộn sinh lý (desordres biologiques)
gây ra một loại bệnh hậu giải phẫu( maladie post-operatoire) Bệnh này được
nghiên cứu kỹ càng để dần dà đưa tới phương pháp hồi sinh (reanimation) một
phương pháp ngày nay rất thông dụng, không những ở ngoại khoa mà còn ở nội khoa
nữa.
Một trong những kỹ thuật kỳ lạ nhất của khoa gây mê là đông miên nhân tạo (hibernation artificielle) và nhờ phương pháp
này, người ta có thể giải phẫu tim được.
Một đàng, nhờ có phương pháp hồi sinh và thuốc mê, đàng khác nhờ
có thuốc trụ sinh-mỗi ngày một nhiều-nhờ có thuốc ngăn đông huyết
(anticoagulants) và sau hết nhờ tiếp máu, có khi thay cả máu nữa, mà khoa giải
phẫu đã đi vào những con đường mà từ xưa tới nay không ai dám nghĩ tới như là
mổ phổi để rồi cắt đi, mổ óc, tủy, xương sống, giao cảm thần kinh (sympathique)
hoặc ghép mạch máu, ghép xương, ghép mắt, ghép thận …vv. Mới đây các bạn còn
nghe nói về những vụ thay tim làm chấn động dư luận thế giới và khiến mọi người
phải kinh ngạc và thán phục vô cùng.
Bên cạnh những thành công rực rở đó nội khoa cũng phát triển rất
nhanh.
Nhờ có thuốc trụ sinh, phát minh vào cuối thế chiến thứ hai,
nhiều bệnh truyền nhiễm như thương hàn, giang mai…. đã bị đẩy lui.
Nhờ có Penicilllin-do Fleming tìm ra- nhiều loại vi trùng như:
pneumocoque, streptocoque, méningocoque. đã bị tiêu diệt và nhiều bệnh phổi,
bệnh đau màng óc cấp tính, bệnh lậu, có thể trị được, cũng như bệnh đau tim do
vi trùng streptocoque viridans-còn gọi là bệnh Osler- mà xưa kia y học đã phải
bó tay.
Còn nhiều trụ sinh khác cũng được khám phá và đáng kể nhất là
streptomycine-do Waksman tìm ra năm 1943- rất công hiệu để trị bệnh lao, một
trong tứ chứng nan y của ta. Lần đầu tiên bệnh nguy hiểm này đã bị
đánh bại.
Ngoài trụ sinh ra, người ta còn tìm ra được nhiều loại thuốc hóa
học nữa, trong đó phải kể Isoniazide rất thông dụng từ năm 1952 để chữa bệnh
lao, song song với streptomycine và nhiều thuốc khác như Chlopromazine
(largactyl) để trị các bệnh thần kinh. Từ ngày có thuốc này và những thuốc mới
như resepine, tại các dưỡng đường điều trị người điên, loạn óc, ta không còn
chứng kiến những cảnh huyên náo nữa, và nhất là bệnh nhân không còn bị đối xử
như những con thú vật, mỗi khi lên cơn điên, bị nhốt trong chuồng sắt, chân tay
bị trói chặt, như cách đây trên 30 năm, hồi tôi còn là sinh viên.
Chúng ta cũng thể quên được những khám phá quan trọng trong
ngành học về những bệnh do siêu vi trùng gây ra, và nên biết rằng ngày nay, nhờ
có thuốc chích hoặc uống thuốc phòng ngừa mà nhiều bệnh như bệnh tê liệt
(poliomyélite) có thể tránh được, cũng như bệnh cúm(grippe) bệnh sởi
(rougeole). . vv
Những bệnh truyền nhiễm ghê gớm như bệnh tả (choléra) bệnh dịch
hạch (pest) bệnh cùi (hủi) bệnh hoàng đản (fièvre jaune) không còn là mối lo
cho nhân loại như hồi xưa nữa. Và những bệnh như bệnh ngủ (maladie du sommeil)
ở Phi châu, bệnh sốt rét cơn (paludisme) cũng đã bị đẩy lui. Nhờ có bột DDT mà
hàng chục triệu người đã không mắc bệnh sốt rét cơn.
Các bạn thân mến.
Tôi không thể kê khai hết ở đây tất cả những phát minh khác của
y học trong mấy năm vừa rồi, như: sinh tố, kích thích tố( đặc biệt là
cortisone, A. C. T. H ) hoặc nói đến những phương pháp tối tân để định bệnh
bằng quang tuyến, bằng isotope. . vv mà chỉ nhấn mạnh tới những khám phá quan
trọng trên lãnh vực trị liệu thôi.
Đời sống trung bình của con người cách đây hai thế kỷ là 35 năm,
nay lên tới 70, và có lẽ chỉ trong vài chục năm nữa số người thọ 100 tuổi là
thường.
Nhưng chúng ta đừng quá lạc quan và yên trí rằng bất cứ bệnh nào
cũng có thể trị được dù y học tiến bộ mấy đi nữa, hiện nay vẫn còn có một số
bệnh mà người ta vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân, như bệnh tê thấp, bệnh chai
động mạch(arterio-sclerose), bệnh ung thư máu (leucemie)…Còn đối với những bệnh
ở thần kinh hệ do siêu vi trùng gây ra (virus neurotrope) chúng ta vẫn còn …. .
bất lực.
Y học hiện nay vẫn chưa có thuốc để cho ta khỏi già. Không những
đừng quá lạc quan mà còn phải biết những nguy hiểm và những bệnh do chính thuốc
gây ra (maladies thérapeutiques). Giáo sư Michel Conte đã nói:
Hiện nay chúng ta đang đứng trước một bi kịch mà chúng ta không
phải là khán giả. Chúng ta bị lôi cuốn vào trong một cơn gió lốc, và chúng ta
phải chữa bệnh, tức là phải lực chọn những thứ thuốc mới, và cái đó không phải
là chuyện dễ. Chưa bao giờ quyền lực của người thày thuốc lại mạnh đến thế,
nhưng chưa bao giờ họ lại cảm thấy mình lúng túng đến thế.
Trụ sinh khi dùng bừa bãi, có thể tạo ra nhiều bệnh nặng do vi
trùng staphylocoque gây ra, hoặc bệnh nấm(mycose) hoặc làm cho máu biến đổi.
Một vài loại sulfamide có thể gây ra bệnh ngoài da chết người
được. Aspirine dùng nhiều có thể làm loét bao tử và xuất huyết, dùng corisone
có thể làm thủng bao tử, gây kinh phong, hoặc làm cho bệnh lao cũ tái phát.
Butazolidine có thể làm băng huyết được. Nhiều tai nạn lưu thông đã xảy chỉ tại
dùng thuốc an thần, những thuốc này làm cho phản ứng chậm lại.
Người ta cũng nói nhiều về trường hợp các lực sĩ chết vì dùng
kích thích tố trong các cuộc thi điền kinh.
Vẫn hay rằng những thuốc nói trên, trước khi đem ra dúng đã được
thí nghiệm cho súc vật (Florey và Chain đã chích Penicilllin cho chuột và thấy
không độc nên mới chích cho người, cũng như các loại thuốc an thần) nhưng làm
sao biết chắc được là khi áp dụng cho người sẽ không nguy hiểm sẽ không nguy
hiểm?Làm sao có thể tiên liệu được những phản ứng chậm, còn những thứ thuốc,
thuộc loại thuốc hóa học, mỗi ngày một nhiều, càng công hiệu lại càng nguy
hiểm)
Người ta đã từng thí nghiệm thuốc thalidomide trước khi đưa ra
thị trường nhưng có ai ngờ đâu rằng dược phẩm đó lại làm cho các sản phụ sinh
ra quái thai. ?
Các bạn thân mến.
Tôi không có ý nêu ra đây những nguy hiểm của thuốc để các bạn
sợ và đừng dùng, mà chỉ mong sao các bạn thận trọng mỗi khi các bạn cho toa,
nhất là lưu ý các bạn đến những phản ứng bất ngờ có thể xảy ra với bất cứ loại
thuốc nào. bởi vậy các bạn cần hỏi cặn kẻ bệnh nhân trước khi biên toa cho họ.
Tôi đã nói với các bạn không có nghề nào có nhiều trách nhiệm
bằng nghề thuốc, nhưng cũng không có nghề nào cao quý bằng. Cứu sống một người
bị thương nặng nhờ giải phẫu kịp thời và đúng kỹ thuật, làm cho một bệnh nhân
đang đau quằn quại chỉ trong phút chốc hết đau ngay, hoặc trả lại cho một bà mẹ
đứ con yêu quý mà bà ta yên trí khó lòng qua khỏi, tất cả những cái đó, đối với
một người không ở trong nghề, thật là phi thường và được coi như phép lạ.
Trách nhiệm của người thày thuốc nặng nề ngay từ khi định bệnh
cho đến lúc kê toa, hoặc giải phẫu, bởi tính mạng của một người nằm trong tay
họ.
Trách nhiệm đó làm cho người thày thuốc ngày đêm lo lắng đến
quên ănmất ngủ. Tôi thành thật mong cho các bạn được sống những giờ phút lo âu
hồi hộp đó vì chính nhờ thế, rồi qua khỏi mới cảm thấy được tất cả cái cao đẹp
của nghề thuốc.
Trousseau, một vị danh sư của Pháp, đã từng khuyên các sinh viên
y khoa:
‘”Các bạn có bổn phận làm vẻ vang cho nghề của các bạn, cũng như
nhờ nghề đó mà các bạn được vẻ vang, một nghề đòi hỏi nhiều hi sinh, một nghề
trong đó ngày và đêm của các bạn sẽ là ngày và đêm của người ốm”
Các bạn nên yên trí rằng các bạn gieo tận tâm mà sẽ chỉ gặt bội
bạc. Các bạn sẽ phải gạt bỏ hết những thú vui đầm ấm của gia đình và thì giờ
nghỉ ngơi sau một thời gian làm lụng vất vả.
Các bạn không được sợ thối tha bẩn thỉu hoặc nguy hiểm, các bạn
không được lùi bước trước cái chết khi cái chết đó xảy ra giữa những lúc nguy
hiểm của nghề chúng ta, bởi chết như thế sẽ làm cho ai nấy khi nhắc đến tên
bạn, phải tỏ lòng kính mến. ”
Như tôi vừa nói, y học ngày nay tiến rất nhanh, và muốn trở
thành một bác sĩ lành nghề, các bạn khi còn là sinh viên, phải siêng năng học
tập, từ lý thuyết đến thực hành. Định bệnh chậm trễ hoặc sai lầm khi cho thuốc
(cho quá hoặc không đủ liều) đều là những lỗi không thể tha thứ được. Bởi vậy
thiết tưởng trong LỜI TUYÊN THỆ của Hippocrate cần ghi thêm câu này: Tôi xin thề suốt đời học hỏiTrong thời buổi này, bổn phận đầu tiên của
người thày thuốc là phải học, phải biết, và phải biết cho đến nơi đến chốn, chứ
không được biết lờ mờ.
Không nói tất các bạn cũng rõ là những kiến thức của chúng ta ở
trên mọi lãnh vực, chứ không riêng gì ở y khoa, chỉ trong vài ba năm, có khi
vài tháng, đã trở thành” cũ rích”. vì vậy chúng ta cần phải trau dồi học hỏi
luôn luôn, suốt đời chúng ta vẫn phải là sinh viên đầy nhiệt hứng. Bận rộn mấy
các bạn cũng cố dành thì giờ để đọc sách, báo y học, ngõ hầu theo dõi những
tiến triển của y khoa, và nếu các bạn có thể tìm tòi, khảo cứu được thì càng
hay. Thật là một tai họa cho người ốm nếu chẳng may gặp phải ông thày thuốc, dù
tử tế dù tận tâm, nhưng” gà mờ “khiến tiền mất mà tật vẫn mang.
Người ta thường nói”có học mà không có lương tâm là sự đồi
bại của linh hồn” (science sans conscience n’est que ruine de l’âme) nhưng
có lương tâm mà không có học, nhất là khi làm nghề thuốc, cũng bằng thừa, nguy
hiểm nữa là khác. “Tài năng và lương tâm chức nghiệp đều có liên hệ mật
thiết với nhau, và giá trị nghề nghiệp phải đi đôi với giá trị đạo đức. Dốt nát
và lừa bịp đều như nhau cả” (Gosset)
Ngoài việc trau dồi kiến thức y học, người thày thuốc còn phải
có một vài đức tính sau đây:
a)Có óc nhận xét, nếu không sẽ bỏ qua những triệu chứng
cần thiết để định bệnh.
b) Có lương tri, tức óc phê bình, biết phán đoán, không quá tin
ở những kỹ thuật hoặc thuốc mới nếu xét thấy những kỹ thuật và thuốc này trái
ngược với bệnh lý (phòng thí nghiệm vẫn có thể nhầm được). Đừng ham mới chuộng
lạ nếu thuốc kê cho bệnh nhân dùng chưa được các danh sư hoặc các bác sĩ đứng
đắn xác nhận là công hiệu và không nguy hiểm. Có nhiều thứ thuốc hôm nay được
ca tụng như thần dược mà chỉ trong một thời gian ngắn đã bị bỏ rơi (trường hợp
vàng để trị bệnh lao, thạch tín (arsenic) để chữa giang mai. . ) Bởi vậy trước
khi cho toa các bạn phải thận trọng và luôn luôn nhớ tới lời châm ngôn cổ:
Primum non nocere (trước hết đừng làm hại).
c) Có kinh nghiệm:
Muốn có kinh nghiệm dĩ nhiên phải hành nghề lâu năm. Tuy nhiên
đối với nghề thuốc cũng như với nhiều nghề khác, các bạn đứng tưởng rằng cứ
nhiều tuổi nghề mà có nhiều kinh nghiệm, nhiều từng trải, vì có “những cái
mà mình cho là kinh nghiệm, kỳ thực là những sai lầm chồng chất lên nhau” (Sergent)
Một sinh viên y khoa năm thứ nhất, lần đầu tiên gặp một người
mắc bệnh thương hàn lần sau gặp một người sốt liên miên, nom có vẻ mệt mỏi,
chàng ta không do dự gì cả, bảo người đó bị bệnh thương hàn. Trái lại một sinh
viên năm thứ năm, hoặc một sinh viên nội trú hoặc một vị giảng sư dù đã từng
chữa hàng trăm người mắc bệnh đó rồi, bao giờ cũng dè dặt, không vội vả. Những
người ít học lại càng hay tự phụ, còn những người học rộng tài cao lại càng
khiêm tốn”khác nào những bông lúa lép bao giờ cũng ngạo nghễ vươn đầu lên
trời, trong khi những bông lúa vàng nặng trĩu hạt thì nằm rạp xuống đất" (Leonard de Vinci )
Ngoài kiến thức về y học ra người thày thuốc còn phải có những
đức tính tinh thần, nhất là phải có tình thương.
Làm thày thuốc dù giỏi, dù có lương tâm mà thiếu tình thương thì
chỉ được coi như mới làm có một nửa phận sự thôi, và nhất định không thể nào
yêu nghề được. Từ mấy ngàn năm nay Hippocrate đã nhấn mạnh tới điểm quan trọng
này rồi.
Bạn săn sóc người ốm, sau khi đã thăm bệnh, cho toa, dặn dò cặn
kẻ cách dùng thuốc như thế nào và cho biết bệnh tình nặng nhẹ ra sao, bao giời
khỏi, rồi bạn ra về, như vậy đã đủ chưa? Tôi thấy là chưa đủ. Vì ngoài cái đau
đớn về thể xác, bệnh nhân nào cũng mong được vỗ về, an ủi, bệnh nhân nào dù
sang hèn, cũng muốn rằng người thày thuốc kiêm cả một nhà tiên tri nữa, biết
hiện tại lẫn tương lai, chữa được mọi bệnh ngay cả tâm bệnh.
Phải chính bản thân mình đã từng bị đau ốm mới biết thế nào là
một người thày thuốc. Trong khi mong đợi thì xiết bao lo ngại, băn khoăn, rồi
khi thấy mặt thì mừng rỡ, cảm thấy vững tâm ngay. Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của người
thày thuốc đều quan trọng đối với người bệnh, và người này chỉ muốn cho ông
thày lúc nào cũng ở bên cạnh mình, không rời mình ra, bất kể đêm khuya, bất kể
họ mệt nhọc. Nào chỉ có thế thôi !Lại còn những lời trách móc nếu mời mà đến
chậm, hoặc đi vắng vì hôm đó nhằm ngày chủ nhật hay ngày lễ.
Chính nhờ có sự vững tâm nói trên mà nhiều khi bệnh mau khỏi.
Bởi lẽ đó, y học muốn trở thành một nghề cao quý, cần phải là một nền y học
nhân bản, nghĩa là hiểu thấu những gì thuộc về con người, con người toàn diện,
con người trong quá khứ và hiện tại. Và nhất là phải tôn trọng con người.
“Nhân bản là cảm thấy trong lòng con người ta trải qua bao
thế kỷ, cái gì đó vẫn bất di, bất dịch, con người thì hoàn toàn và sống trong
một thế giới thích hợp với họ, con người biết rung động trước thiên nhiên, biết
rung động khi nghe một bản nhạc, khi đọc một cuốn sách khi suy ngẫm về những sự
huyền bí của tạo vật. Nhân bản tức là biết cảm, biết yêu, biết thương xót”
(Maranon)
Một người ốm, không phải chỉ có phần xác, với tim, gan, phổi,
thận mà thôi, lại còn có cái mà từ ngàn xưa Platon gọi là phần hồn nữa.
Một bệnh nhân thuộc về bất cứ thành phần nào trong xã hội không
phải là một con số, hay là một lá phiếu như ta thường quan niệm ở bệnh viện. Họ
không phải là một kẻ vô danh, mà ngược lại, là một người như chúng ta, một
người có tên, có tuổi, có nghề nghiệp, địa chỉ, có gia đình, có những hoài bão,
ước mơ, cảm xúc.
Các bạn nên biết rằng một bệnh nhân khi nằm trên giường bệnh,
không bao giờ có những phản ứng tâm lý như một người bình thường, và buổi đầu
thế nào họ cũng có những xúc động lo âu.
Người thày thuốc không phải là một người thợ máy sữa chữa cơ thể
như ta sửa một cái máy hư”Đó là một con người cúi xuống một con người khác,
mong giúp đở họ, có gì cho nấy, đem lại cho họ một chút khoa học nhưng rõ nhiều
tình thương”(Ignacio chavez).
Muốn rằng thày thuốc là một con người máy và người ốm là một con
số tức là không hiểu một tí gì về khoa tâm lý cả. Không nói tất các bạn cũng rõ
là con người ta phức tạp vô cùng, đầy mâu thuẩn, có lúc sống với những bản năng
cực kỳ hèn thấp, nhưng đôi khi lại có những hành động thật là cao thượng, siêu
nhân. Và có lẽ bởi nhìn thấy rõ các nhược điểm đó nên người thày thuốc, mỗi khi
gặp một bệnh nhân khó tính, hoặc đối xử với mình tệ bạc mà vẫn sẳn lòng tha
thứ.
Không có một bộ máy nào dù cho tinh xảo mấy đi nữa, có thể ủy
lạo người ốm với những lời dịu dàng trìu mến được, và giữa người thày thuốc và
con bệnh, bao giờ cũng có một sự cảm thông, một mối dây liên lạc mật thiết “một
cuộc đối thoại kỳ lạ”(une colloque singulier) như Duhamel đã nói, một bên
thì ký thác những gì bí ẩn trong cõi lòng của mình, còn một bên thì cho mà
không hề đòi hỏi. Hiểu như vậy các bạn sẽ cảm thấy sung sướng vô cùng, và nếu
cái học của các bạn không phải là cái học nhân bản thì thật là vô ích và đáng
tiếc lắm.
Tóm lại đối với người thày thuốc, xứng đáng với danh từ đó “không
có bệnh mà chỉ có con bệnh thôi” (Mondor).
*************
Ta thường nghe người ta phê bình ông thày thuốc này tốt, ông kia
tử tế. Tốt hay tử tế không phải vì mát tay, mà vì ngoài công việc chữa bệnh ra,
người thày thuốc còn hỏi han đến gia cảnh của thân chủ mình, đến sự học hành
của con cái họ, có khi khuyên răn, có khi giúp đở, nghĩa là làm tất cả những gì
có thể làm cho bệnh nhân và gia đình họ được hài lòng “ chỉ có người tốt mới có
thể thành danh y được (Nothnagel) vì nhiều khi chính nhờ tấm lòng tốt của người
thày thuốc mà bệnh nhân chóng bình phục.
Ngoài tình thương và tấm lòng tốt ra người thày thuốc còn phải
tế nhị đối với bệnh nhân nhất là ở bệnh viện.
Các bạn đừng quên rằng người ốm bao giờ cũng có nhiều mặc cảm
(mặc cảm tự ti) hay lo lắng và thường để ý tới cử chỉ và lời nói của các bạn.
Các bạn đừng khinh người nghèo khó và nên nhớ rằng trước bệnh
tật và cái chết ai ai cũng như nhau cả.
Ambroise Pare người đã được coi như cha đẻ của khoa giải phẫu,
nguyên là ngự y cho vua Chareles IX một hôm nhà vua đau cho vời ông lại và bảo:
“Trẩm mong khanh săn sóc Trẫm chu đáo hơn những người khác” Ambroise Pare đáp”Tâu bệ hạ hạ thần rất
tiếc vì kẻ hạ thần chữa thân chủ của hạ thần như chữa các bậc đế vương”
Ngay đến những sa đọa về tinh thần của bệnh nhân các bạn cũng
phải tôn trọng.
Các bạn sinh viên thân mến,
Như trên tôi vừa nói, trong nghề thuốc của chúng ta có nhiều
buồn, nhiều đau khổ hơn vui, nhất là nhiều nhục hơn vinh. Có những người mà ta tận tình săn sóc lại là
những kẻ bội nghĩa vong ân, và trái lại, có những người mà tự xét ta chẳng làm
được gì gọi là đáng kể thì suốt đời họ lại coi ta như bậc ân nhân.
*********
Nói tới những bổn phận của các bạn, tôi không thể không đề cập
đến vấn đề bí mật nghề nghiệp (secret professionnel)
Tuyệt đối người thày thuốc không được tiết lộ cho ai biết căn
bệnh của thân chủ mình. Trong bệnh viện khi các bạn còn là sinh viên, các bạn
không được nói to để người ngoài biết bệnh tình của con bệnh, hoặc cho biết họ
mắc bệnh gì (một bà chủ muốn biết người làm công của mình mắc bệnh lao hay
không). Ngay cả đối với nhà cầm quyền, các bạn cũng không được tiết lộ những gì
bạn biết về thân chủ của các bạn. Khi viên cảnh sát trưởng hỏi ông Dupuytren để
biết ai là kẻ phiến loạn trong số người nằm điều trị trong bệnh viện, ông ta
đáp: ”Tôi không biết ai là phiến loạn cả, tôi chỉ biết có những người bị thương
thôi”
Các bạn cũng nên biết rằng các bạn có thể bị phạt tù nếu các bạn
không kín miệng.
Sau hết các bạn phải có lương tâm chức nghiệp, hay nói một cách
vắn tắt, các bạn khi hành nghề phải có lương tâm. Giaó sư Jean Gosset đã từng
nói;”Trong phòng giải phẫu người thày thuốc là chúa tể sau đức Thượng Đế
nhưng có trách nhiệm trước lương tâm của mình”
Không riêng gì thày thuốc ngoại khoa mà có thể nói một cách tổng
quan là không một ai có thể kiểm soát nỗi một bác sĩ ngoại trừ lương
tâm của họ
Sởv dĩ ngày nay y học không có một địa vị xứng đáng trong xã
hội, sở dĩ người thày thuốc không được trọng vọng, không được kính nể như hồi
xưa (kể cả ở Việt Nam) là bởi trong nghề của chúng ta có một số con chiên ghẻ,
thiếu lương tâm chức nghiệp.
Các bạn thân mến
Nghề thuốc mà các bạn đã lực chọn không giống những nghề khác.
Nhất định không, một trăm, một ngàn lần không. Ai đã chọn nghề này cần phài
biết rằng có nhiều cái không được phép làm, và phạm tới những cấm điều đó, tức là làm hoen ố nghề mình.
Nếu các bạn không muốn sống khắc khổ, không sẳn sàng hi sinh tốt
hơn hết là các bạn tìm một nghề khác, ngay từ bây giờ cũng chưa muộn. Không
thiếu gì nghề ngoài nghề thuốc vừa đem lại cho các bạn danh giá tiền bạc lại
không vất vả, nhất là không có trách nhiệm gì hết.
Có người, nhiều người lắmtưởng rằng nghề thuốc cũng như nghề đi
buôn. Kỳ thực, giữa nghề đi buôn và những nghề tự do, trong đó có nghề thuốc,
có một hố sâu không sao lấp được.
Mục đích nghề đi buôn là mua rồi bán để lấy lời. Giá hàng cao
hay hạ là tùy thuộc ở món hàng tốt hay xấu, bền hay không bền.
Trái lại mục đích chính của nghề tự do không phải là tiền tài
hay lợi lộc. Người thày thuốc khi săn sóc một người ốm, cũng như một giáo sư
khi giảng bài cho học sinh, sinh viên, đều cố gắng hết sức mình chứ đâu có nghĩ
tới tiền thù lao, lương lậu ?
Người đi buôn có quyền làm quảng cáo rùm beng, hoặc trên báo,
hoặc trên đài phát thanh, trên đài truyền hình để “câu khách”, hoặc nhờ người
dắt mối rồi cho họ ăn hoa hồng.
Người đi buôn có thể rao ầm ỉ để mọi người biết là hàng của họ
đep, bền, rè nhất thế giới chẳng hạn mà không sợ ai chê cười. Trái lại, người
thày thuốc, biết tự trọng, có liêm sĩ, không được phép làm như vậy. Không những
Y sĩ đoàn, Nghĩa vụ luận không cho phép mà chính lương tâm của họ cũng không
cho phép.
“Người ốm không phải là một món hàng và chúng ta cũng thế,
chúng ta không phải là món hàng để cho thiên hạ đem tiền ra mua chuộc. Chính
người thày thuốc, khi đem tài nghệ của mình ra để phục vụ người ốm, đã làm ơn
cho họ, chứ không phải người ốm, vì đem tiền bạc hay thế lực mà ban ơn cho
người thày thuốc”. (Leannec)
Ngoài bổn phận đối với bệnh nhân ra, các bạn còn có bổn phận đối
với các bạn đồng nghiệp nữa.
Tôi nhận thấy ngày nay phần đông các bác sĩ không đối xử với
nhau như các bậc đàn anh của họ hồi xưa: trên kính dưới nhường. Tuyệt đối các
bạn không được nói xấu bạn đồng nghiệp, không được phê bình (với ác ý) chỉ trích cách định bệnh hoặc chữa
bệnh của họ, không được gièm pha để tranh khách, không được len lỏi vào một gia
đình nếu gia đình đó đã có một dồng nghiệp rồi.
Giáo sư P, V. Badot có kể lại truyện về giáo sư Maranon, một hôm
tới bệnh viện Bichat và chăm chú nghe một sinh viên nội trú giới thiệu một bệnh
nhân mắc chứng bệnh ở nội tiết tuyến (glandes endocrines) P, V. Badot viết: ”Khi
tôi hỏi ý kiến của ông trước mặt đông đủ học trò của tôi thì ông chỉ mỉm cười,
không trả lời. Khi chỉ có một mình ông với tôi, tôi nói:
-Thế nào ông có đồng ý không?
Giáo sư Maranon đáp:
-Tôi không hoàn toàn đồng ý với học trò của ông.
-Thế tại sao lúc ấy ông không nói?
-Bởi vì không ai có thể biết sự thật chắc chắn được, Vả lại,
không bao giờ được làm mất lòng một bạn đồng nghiệp cả!”
Rồi giáo sư PVBadot kết luận: “Lịch sự tới cực độ ấy là một
đặc tính của ông. ”
Còn một điều này nữa tôi muốn nói với các bạn, là ngoài nghề
thuốc racác bạn cần phải trau dồi văn hóa, không những trên lãnh vực khoa học
mà cả trên lãnh vực văn chương nữa. Ở vào thời buổi này một nhà khoa học phải
ham thích văn chương cũng như một nhà văn, không thể không biết tới khoa học.
Chính nhờ văn hóa mà bạn có óc phê bình, sự phán đoàn của bạn
được sắc bén, mau lẹ và minh mẫn, trí tuệ không bị cùn nhụt, căn cỗi, thành
chai, tâm hồn của bạn vẫn giữ được trẻ trung mãi mãi.
Giáo sư P, V. Badot đã viết:
Phải mở mang trí tuệ của thnh niên hơn là để họ sống gò bó trong
khuôn khổ chật hẹp của y khoa.
Tôi nhận thấy nhiều danh y của thế giới, hoăc nhiều giáo sư đại
học, đều là những người hiếu học, ham đọc sách, yêu sách, yêu nghệ thuật, học
thức rất uyên thâm, vừa là thầy thuốc trứ danh, vừa là nhà văn nổi tiếng, như
Mondor (nổi danh nhờ con daocây bút và cây cọ) Jean Delay, P. V. Radot,
Duhamel…. những người này vừa có chân trong Hàn Lâm viện Y khoa vừa là Hội viên
của Hàn Lâm viện Pháp.
Nữ văn hào Han Suyin, Sommerset Maugham, Cronin, trước khi là
nhà văn, đã từng làm nghề thuốc.
Tchekov, đại văn hào Nga, vừa sống về nghề thuốc, vừa viết văn.
Ông thường nói: ”Y học là vợ chính thức của tôi, còn văn chương là tình
nhân. Khi tôi chán bà này thì tôi đi với bà kia. Tuy nhiên đối với cả hai, tôi
đều trung thành cả. Nếu không có nghề thuốc, có lẽ tôi không có tài liệu để
viết văn. ”
Giáo sư Trousseau già tôi đã dẫn thượng, cũng bảo: Một nhà bác học mà không phải là một nghệ sĩ
chỉ là một nhà bác học tầm thường”
Bởi vậy tôi khuyên các bạn, ngoài việc học ra, nên để thời giờ
nhàn rỗi, trau dồi văn hóa, rèn luyện văn chương, nghệ thuật (âm nhạc hội
họa……) chơi thể thao, để cuộc đời đỡ buồn tẻ, vì theo tôi, nếu suốt đời làm mãi
một nghề, bất cứ nghề gì, mà vẫn hăng say, không thấy chán thì quả thật là một
sự lạ.
Không những để cuộc đời khỏi buồn tẻ mà còn làm cho đời sống
thêm phong phú, để biết sâu hiểu rộng, ngoài lãnh vực y khoa.
Người ta thường so sánh thày thuốc với ông Cha sở và ông Luật
sư. Tôi không mang tiếng mắc bệnh chủ quan nếu phê bình vai trò của ba loại
người đó, mặc dầu ở đây chỉ có các bạn và tôi mà chỉ xin dẫn Balzac và Duhamel là
hai văn hào đã viết rất nhiều về cuộc đời của mấy nhân vật đó. Balzac nói:
Tôi cho rằng sở dĩ văn minh tiến bộ và nhân loại được sung sướng
là nhờ ba người này”
Nhưng sau khi nhận thức đúng vai trò của người thày thuốc, ông
nói thêm:
“Người nhà quê sẳn sàng nghe lời người kê toa cho mình để họ
khỏi bệnh hơn là nghe lời ông Cha sở diễn thuyết về việc cứu vớt linh hồn. Một
đàng có thể nói chuyện với họ về đồng áng và một đàng, chỉ có thể bàn với họ về
thiên đàng, điều mà họ ít quan tâm tới. ”
Còn Duhamel thì viết về ba vị đó như sau:
“Ông luật sư mà ta nhờ cậy để bệnh vực công lý cho ta có thể
chọn ngày giờ để tiếp khách. Nếu ông yêu nghề, ông sẽ hăng hái làm việc, dù
sao, không có gì cấp bách cả. Đối với thân chủ của ông, dù sao tình thương
không quý bằng tài hùng biện, bằng sự khôn khéo, bằng giao thiệp rộng.
Công việc của một nhà tu hành có thể ví với công việc của người
thày thuốc. tuy nhiên tôi cần nói ngay là chỉ khi nào hấp hối, người ta mới mời
ông Cha Sở. Lương tâm dù bị cắn rứt, đợi đến sáng hôm sau cũng không muộn.
Nhưng thường thường khi lên cơn đau vì trong thận có sạn, thì không thể nào đợi
được. Ít khi người ta đánh thức ông Cha sở, dù ông này tốt, vì có người ăn năn
sám hối; nhưng hơi nhức đầu một tí, có khi chẳng sao cả, đang đêm người ta cũng
dựng ông thày thuốc dậy. ”
Các bạn sinh viên thân mến
Tôi vừa phác họa ra đây hình ảnh của một người thày thuốc, xứng
đáng với danh từ ấy, suốt đời tận tụy, hi sinh cho người ốm, không quản vất vả,
không mấy khi có thì giờ để nghỉ ngơi, giải trí, bữa ăn giấc ngủ thất thường,
ngay đến những thú vui trong gia đình cũng không được hưởng, đã thế lại gặp
nhiều bội bạc, hoăc có khi bị chính các bạn đồng nghiệp dèm pha, ghen ghét.
Tuy vậy nhưng tôi chưa hề thấy một người thày thuốc nào than
phiền về cái nghề của họ, vì đó là một nghề cao đẹp, cao đẹp hơn hết mọi nghề
khác cao đẹp ở chỗ tất cả những cảnh khổ não trên thế gian này chỉ càng thắt
chặt thêm mối dây liên lạc giữa người thày thuốc với người ốm, không phân biệt
giàu sang hay nghèo hèn, cao đẹp ở chỗ chỉ có nghề thuốc mới dung hòa được khoa
học với lý trí và tình thương.
Và để kết thúc buổi nói chuyện, kể cũng khá dài rồi, tôi xin
mượn lời giáo sư E. Rist, trích trong cuốn: Y học là gì ?(Qu’est-ce la Medicine
?)
“Muốn lúc nào cũng lãnh được hết trách nhiệm tinh thần của
nghề chúng ta, chỉ có cách chắc chắn nhất, ấy là chuyên tâm vào nghề của mình,
yêu nghề đó tha thiết, và luôn luôn cố gắng để mỗi ngày một tiến.
Người thày thuốc muốn được tín nhiệm cần phải xứng đáng là người
thày thuốc, cần phải có một nếp sống giản dị, không xa hoa đàng điếm, phải lập
gia đình và ở trong gia đình, nêu một tấm gương thanh bạch đứng đắn.
Người thày thuốc phải sống thực tiễn và sống theo thời đại. Trí
tuệ phải được rèn luyện, trau dồi luôn, hợp nhân đạo. Đối tượng của sự học là
con người, con người toàn diện.
Người thày thuốc không những nên tìm hiểu con người trên lãnh
vực khoa học mà còn cần biết đến đời sống tâm linh nhờ được tiếp xúc với đủ mọi
tầng lớp người, nhờ được trông thấy những thử thách của cuộc đời và làm quen với
những kiệt tác của nhân tâm, của nghệ thuật và của khoa học.
Sống cho người thân yêu và cho nghề của mình, đó không phải là
một đề mục khá đẹp cho một mộ chí hay sao? Và nếu lại còn được cái đặc quyền
sống cho Tổ Quốc nữa thì thật là sung sướng vô cùng. Và chung quy có lẽ đó là
một cách thẳng thắn nhất để sống cho nhân loại. ”
Tôi thành thật cầu chúc cho các bạn sẽ là người thày thuốc gương
mẫu đó.