2015-10-28

Bệnh học viêm tụy cấp

Bệnh học viêm tụy cấp
Dieutri.vn
Mở đầu
Viêm tụy cấp là một bệnh lý cấp tính của tuyến tụy, có thể thay đỗi từ viêm tụy phù nề cho đến viêm tụy hoại tử cấp tụy, trong đó mức độ hoại tử liên quan đến độ trầm trọng của bệnh. Thuật ngữ xuất huyết ít có ý nghĩa trên lâm sàng bởi vì một lượng xuất huyết kẽ ít nhiều có thể thấy trong viêm tụy cấp cũng như trong các rối loạn khác như chấn thương tụy hay u tụy và cũng như trong suy tim sung huyết nặng.
Bệnh nguyên
Sỏi.
Do rượu gây viêm tụy cấp và viêm tụy mạn.
Sau phẫu thuật bụng sau nội soi và chụp đường mật tụy ngược dòng.
Chấn thương vùng bụng.
Biến dưỡng.
Nhiễm trùng: quai bị, viêm gan siêu vi, giun đũa.
Do thuốc.
Ổ loét dạ dày tá tràng thủng dính vào tụy.
Túi thừa tá tràng.
Ống tụy chia đôi.
Cơ chế bệnh sinh
Thuyết tắc nghẽn và trào ngược
Do sỏi, giun, u đã làm khởi phát viêm tụy cấp. Sự tắc nghẽn này thường kèm theo sự trào ngược dịch tụy đã được hoạt hóa, có thể kèm theo dịch mật là những yếu tố gây hoạt hóa men tụy.
Thay đổi tính thấm của ống tụy
Bình thường niêm mạc ống tụy không cho thấm qua các phân tử > 3000Da, sự gia tăng tính thấm xảy ra khi có acide acetyl salicilic, histamin, Calcium và Prostaglandin E2. Khi đó hàng rào biểu mô có thể thấm qua các phân tử từ 20.000 - 25.000 Da. Điều này cho phép thoát các phospholipase A, Trypsin và elastase vào mô kẽ tụy để gây ra viêm tụy cấp.
Thuyết tự tiêu
Thuyết này cho rằng các men như trypsinogen, Chymotrypsinogen, proélastase và phospholipase A2 được hoạt hóa ngay trong tụy gây ra viêm tụy cấp.
Thuyết oxy hóa quá mức
Theo thuyết này, viêm tụy cấp được khởi phát là do sự sản xuất quá mức các gốc oxy hóa tự do và các peroxyde được hoạt hóa do sự cảm ứng men của hệ thống microsom P450.
Lâm sàng
Đau bụng
Đau thường khởi phát đột ngột với cơn đau bụng cấp, đau có thể thây đổi từ nhẹ đến rất nặng, đau thường xuyên và có cơn trội hẳn lên trong viêm tụy cấp do giun, khởi đầu là đau cơn kiểu giun chui ống mật.
Nôn
Nôn cũng là triệu chứng thường gặp (70-80%).
Bụng chướng
Do liệt dạ dày và ruột cũng thường gặp.
Hội chứng nhiễm trùng
Trong trường hợp do giun và sỏi, có thể xảy ra ngày đầu hay ngày thứ hai còn trong viêm tụy cấp do rượu nhiễm trùng thường đến muộn sau 5-7 ngày do bội nhiễm. Trong thể nặng xuất huyết hoại tử các triệu chứng toàn thân nặng nề với hội chứng nhiễm trùng nhiễm độc, bụng chướng và đau lan rộng có thể có dấu bụng ngoại khoa. Ngoài ra còn có dấu xuất huyết nội hay các mảng bầm tím ở quanh rốn hay vùng hông (dấu Cullen và Turner).
Vàng da
Có thể là do nguyên nhân của giun hay sỏi hay trong trường hợp đâu tụy bị viêm hay phù nề chèn ép lên đường dẫn mật.
(dừng lại ở đây)
Cận lâm sàng
Amylase máu
Thường tăng 4 đến 12h sau khi đau, trong viêm tụy cấp thể phù Amylase thường giảm sau 3 - 4 ngày, trong viêm tụy cấp phải tăng trên 3 lần bình thường.
Amylase niệu
Amylase được hấp thu và thải trừ qua đường tiểu, do đó thường tăng chậm hơn sau 2 - 3ngày, thường cao nhất váo ngày thứ 4 - 5 và kéo dài 5 - 7 ngày.
Tỷ số Amylase niệu/Amylase máu là 1, 7 đến 2.
Lipase máu
Thường tăng song song với Amylase máu nhưng đặc hiệu hơn. Kéo dài hơn nhưng định lượng phức tạp và mất nhiều thời gian nên thực tế ít áp dụng. Bình thường lipase máu 250đv/L.
Đường máu
Lúc đầu do sự phóng thích Glucagon nên có thể làm tăng đường máu hay do hoại tử đảo langerhans, đường máu có thể lớn hơn 11 mmol/l.
Calci máu
Có giảm trong viêm tụy cấp nặng thường xuất hiện ngày thứ 2 - 3 và kéo dài một vài tuần, calci máu < 2mmol/l là tiên lượng nặng.
LDH
Tăng trong viêm tụy cấp hoại tử khi LDH > 350Ul/l thì có nghĩa là tiên lượng nặng.
PO2
Thường 60 mmHg xảy ra 25% trường hợp viêm tụy hoại tử, nhất là trong trường hợp có hội chứng suy hô hấp ở người lớn.
Công thức máu
Bạch cầu trung tính cao, nhất là viêm tụy cấp do giun và sỏi, khi bạch cầu >16000/mm3 là yếu tố nặng.
Siêu âm tụy
Tụy lớn, cấu trúc nghèo hơn bình thường, siêu âm còn giúp phát hiện dịch trong ổ bụng, giun, sỏi hay các biến chứng của nó như áp-xe và nang giả tụy.
Chụp cắt lớp tỷ trọng (CT Scanner): có 5 giai đoạn A, B, C, D, E. Có ý nghĩa tiên lượng.
X quang
Thường ít giá trị trong chẩn đoán viêm tụy cấp trong trường hợp liệt ruột nhiều có thể có hình ảnh quai ruột gác.
Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định
Cần nghĩ đến viêm tụy khi bệnh nhân có cơn đau bụng cấp vùng thượng vị và hạ sườn trái kèm nôn nhiều, toàn thân có hội chứng nhiễm trùng, bụng chướng nhiều, khám các điểm đau tụy rõ phối hợp với amylase máu hay niệu > 3 lần bình thường hay hệ số thanh lọc > 5. Siêu âm hay chụp cắt lớp tỷ trọng có hình ảnh viêm tụy cấp.
Chẩn đoán phân biệt
Thủng tạng rỗng:
Đặc biệt là thủng ổ loét dạ dày tá tràng, cần dựa vào tiền sử loét với cơn đau kiểu dao đâm, khám có dấu hiệu bụng ngoại khoa và mất vùng đục trước gan, chụp phim bụng không chuẩn bị có liềm hơi dưới cơ hoành. Ở đây, amylase máu không cao, chỉ tăng 2 - 3 lần bình thường.
Viêm đường mật túi mật cấp:
Cần dựa vào tiền sử sỏi đường mật, cơn đau quặn gan khám thấy các triệu chứng về gan mật với gan lớn, túi mật lớn và đau, vàng da vàng mắt, siêu âm giúp phát hiện túi mật lớn thành dày.
Tắc ruột, lồng ruột cấp:
Nhồi máu cơ tim:
Thường gặp người già có tiền sử cơn đau thắt ngực, khám các điểm tụy không đau. Gián biệt dựa vào amylase máu và điện tâm đồ và các men CPK, CPK-MB và Troponin máu gia tăng.
Biến chứng
Tại chỗ
Áp xe tụy: Nhiễm trùng nặng, sốt cao 39 - 400C kéo dài trên 1 tuần, vùng tụy rất đau, khám có mảng gồ lên rất đau, xác định bằng siêu âm hay chụp cắt lớp tỷ trọng.
Nang giả tụy: Vào tuần thứ 2 - 3, khám vùng tụy có khối ấn căng và tức, amylase còn cao 2 - 3 lần, siêu ân có khối echo trống, chụp cắt lớp tỷ trọng có dấu hiệu tương tự.
Báng do thủng hay vỡ ống tụy hay nang giả tụy vào ổ bụng trong trường hợp viêm tụy cấp xuất huyết do hoại tử mạch máu làm xuất huyết trong ổ bụng.
Toàn thân
Phổi: Có tràn dịch nhất là đáy phổi trái, xẹp phổi hay viêm đáy phổi trái biến chứng nặng nề nhất là hội chứng suy hô hấp ở người lớn.
Tim mạch: Giảm huyết áp hay sốc mà nguyên nhân do phối hợp nhiều yếu tố nhiễm trùng nhiễm độc, xuất huyết và thoát dịch.
Máu: Có thể gây ra hội chứng đông máu nội mạch (CIVD) như trong trường hợp viêm ruột xuất huyết hoại tử.
Tiêu hóa: Viêm loét dạ dày tá tràng cấp, như là một biến chứng Stress do đau hay nhiễm trùng, nhiễm độc và thường biểu hiện dưới dạng xuất huyết. Thuyên tắc tĩnh mạch cửa.
Thận: Thiểu hay vô niệu do suy thận chức năng do giảm thể tích tuần hoàn, hoại tử thận và thượng thận là một biến chứng ít gặp do viêm lan từ tụy. Viêm tắc tĩnh mạch và động mạch thận là biến chứng nằm trong bệnh cảnh chung của viêm tắc mạch.
Biến chứng chuyển hóa: Tăng đường máu hay hạ calci máu.
Điều trị
Điều trị viêm tuỵ cấp mang tính chất của điều trị cấp cứu nội ngoại khoa kết hợp với hồi sức cấp cứu; ngoài biện pháp điều trị chung trong viêm tụy cấp cần chú ý đến điều trị theo nguyên nhân và điều trị biến chứng, như trong viêm tuỵ cấp do giun cần xử dụng ngay thuốc liệt giun và kháng sinh, trong viêm tuỵ cấp do sỏi cần kết hợp điều trị loại trừ sỏi.
Điều trị viêm tuỵ cấp thể thường
Nguyên tắc điều trị: Phần lớn viêm tụy cấp là thể phù (85 - 90%), điều trị chủ yếu bằng phương pháp nội khoa và bệnh sẽ thoái triển sau 5 - 7 ngày. Các biện pháp thông thường là:
Giúp tụy nghỉ ngơi làm giảm đau và giảm tiết bằng nhịn ăn uống, hút dịch vị.
Bù nước và điện giải: Trong viêm tụy cấp do bệnh nhân không ăn uống được, sốt, nôn và hiện tượng thoát dịch nên bệnh nhân thường thiếu nước. Trong trường hợp nặng do hiện tượng tiết dịch viêm và tăng tính thấm thành mạch nên cần chuyền dịch keo hoặc có trọng lượng phân tử cao.
Nuôi dưỡng bằng đường ngoài miệng cho đến khi các triệu chứng đau giảm nhiều mới bắt đầu cho ăn dần, bắt đầu là nước đường, rồi hồ đường rồi cháo để giảm sự tiết dịch tụy.
Các thuốc ức chế choline ít hiệu quả trong việc ức chế tiết dịch tụy mà còn gây chướng bụng và che lấp dấu bụng ngoại khoa.
Các thuốc giảm đau thật sự chỉ dùng khi biện pháp nhịn và hút dịch không làm giảm đau, nhưng không dùng morphin vì có nguy cơ làm co thắt cơ oddi, có thể dùng dolargan hoặc Viscéralgin.
Kháng sinh: Trong viêm tụy cấp do rượu chỉ được dùng để chống bội nhiễm nên thường được dùng chậm. Trái lại trong viêm tụy cấp do giun, nhiễm trùng rất sớm, nên cần xử dụng kháng sinh ngay từ đầu thường là kháng sinh bằng đường tiêm như: Ampicillin, Gentamycin. Trong trường hợp nhiễm trùng nặng cần phối hợp céphalosporin và quinolone; nếu nhiễm trùng nặng và kéo dài, cần xử dụng kháng sinh chống kị khí như nhóm Imidazole, Beta Lactamin hoặc nhóm Macrolide chống kị khí (Clindamycine, Dalacine).
Trong viêm tụy cấp do giun đũa, giun chui vào đường mật tụy nhất là giai đoạn sớm khi giun còn sống và mới chui một phần vào đường mật tụy, thì việc xử dụng thuốc liệt giun có tác dụng nhanh tỏ ra rất có hiệu quả, đây được xem là điều trị nguyên nhân giúp làm giảm đau và làm lui bệnh rất nhanh.
Trong viêm tụy cấp do sỏi: Hiện nay có thể xử dụng phương pháp nội soi và chụp đường mật ngược dòng giúp chẩn đoán, đồng thời xẻ cơ vòng oddi và kéo hoặc tán sỏi.
Trong viêm tụy cấp xuất huyết hoại tử: Thường kèm choáng do đó cần điều trị tích cực bằng bù dịch và điện giải. Nếu albumin máu giảm nhiều < 60g/l cần truyền dung dịch có áp lực keo như albumin, plasmagen hoặc dung dịch có trọng lượng phân tử cao như Rhéodex; nếu có xuất huyết (HCgiảm > 1 triệu hoặc Hct giảm > 10%) thì cần truyền máu. Ngoài ra cần dùng các thuốc vận mạch như dopamin hoặc Dobutamin (Dobutrex).
Áp dụng thực tế
Nhịn đói: Thường là 2 - 3 ngày cho đến khi giảm đau nhiều thì bắt đầu cho ăn dần từng ít một bằng nước đường sau đó chuyển dần sang ăn cháo, lúc đầu là cháo đường lỏng sau đặc dần, cần theo dõi dấu hiệu đau bụng.
Hút dịch vị: Bằng đặt sonde dạ dày hút dịch vị liên tục, có thể lưu sonde.
Truyền dịch: Thông thường 2 - 3 lít/ngày bằng ringer lactate hoặc bằng Clorua natri và glucose đẳng trương.
Trong trường hợp viêm tụy cấp do giun thì cần cho thuốc liệt giun sớm bằng lévamisole viên 50mg hoặc 150mg, liều 150mg uống hoặc nghiền nhỏ bơm qua sonde; palmoat de pyrantel, viên 125mg liều 10mg/kg, Mébendazole viên 200mg, liều 600mg hoăc albendazole viên 200ng hoặc 400mg liều 400mg. Đồng thời sử dụng kháng sinh sớm như ampicilline tiêm bắp liều 2g/ngày và gentamycine, liều 3 - 5mg/kg/ngày.
Điều trị viêm tuỵ cấp thể xuất tiết
Cần tích cực hút dạ dày và bù nước và điện giải đầy đủ, thường thời gian hút dịch dạ dày kéo dài 5 - 7 ngày, khi rút sonde phải theo dõi kỹ tình trạng đau thượng vị, lượng dịch bù cao hơn vì ở đây tình trạng mất nước, điện giải và prrotein thường cao hơn do sốt, nôn nhiều, liệt ruột nặng hơn và nhất là dịch xuất tiết nhiều trong ổ bụng, thường dịch bù hàng ngày có thể lên đến 3 - 4 lít, chú ý cho thêm dịch có trọng lượng phân tử cao hoặc albumin; đồng thời tăng cường kháng sinh chủ yếu là phối hợp gentamycine liều như trên kết hợp với céphalosporine như Cefotaxime, ceftriazole hoặc cefuroxime liều 3g/ngày hoặc quinolone như ofloxacine 400mg/ngày, ciprofloxacine liều 1000mg/ ngày truyền tĩnh mạch hoặc kháng sinh chống kị khí như Metronidazole liều 1.000mg/ngày chuyền tỉnh mạch trong vòng 1 giờ.
Điều trị viêm tuỵ cấp nặng
Viêm tuỵ cấp nặng là thuật ngữ để mô tả thể viêm tụy cấp xuất huyết hoại tử. Tuy nhiên ngoài yếu tố xuất huyết hoại tử, còn có vấn đề xuất tiết quá nhiều dịch trong ổ bụng qua cơ chế dòng dịch viêm hiện nay (coulée inflamatoire), cũng như hiện tượng nhiễm trùng nhiễm độc gây áp xe hóa tụy cũng là yếu tố gây viêm tụy cấp nặng. Đây là một bệnh cảnh cấp cứu nội ngoại khoa rất nặng, tỉ lệ tử vong có thể đến 80%.
Điều tri nội khoa:
Trước tiên phải đặt bệnh nhân trong 1 đơn vị hồi sức cấp cứu nội ngoại khoa. Đặt 1 cathéter Swan ganz đủ lớn để có thể giúp tiếp dịch.
Nuôi dưỡng bệnh nhân: Điều quan trọng là phải cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng và giàu năng lượng. Bất luận diễn tiến của viêm tụy cấp nặng như thế nào cũng cần cung cấp năng lượng tối ưu với 60 calo/Kg trọng lượng, trung bình 3.000 - 3.500 calo/ngày chủ yếu là glucide và lipide. Ban đầu là cho ăn bằng đường đặt catéther dưới đòn. Ngay khi giảm đau nhiều và không có triệu chứng tắt ruột thì chuyển qua ăn bằng đường tiêu hóa bằng cách đặt sonde dạ dày mũi có 2 nòng: nòng ngắn đặt trước môn vị, nòng dài đặt 30 - 40 cm trong đoạn đầu của hổng tràng.
Điều chỉnh nước điện giải và thăng bằng kiềm toan: Bằng cách truyền các dung dịch đường, muối (điện giải) và albumin. Điều quan trọng là phải duy trì huyết động ở mức bình thường, độ hòa loãng của máu thích hợp để giúp trao đổi qua mao mạch dễ dàng để tránh tắc mạch do độ nhờn máu tăng.
Lượng dịch chuyền cần dựa vào mạch và huyết áp, Hct, điện giải đồ và nhất là áp lực tĩnh mạch trung tâm. Thông thường là 3 - 4 lít/ngày, trong một số trường hợp nặng có thể truyền đến 10L trong 48 giờ đầu.
Tốt nhất là truyền Ringer lactate. Nếu không có thì chuyền 1/2 đường và 1/2 muối đẳng trương. Cứ 1 lít dịch cho 1 đơn vị albumin huyết thanh người (12,5 g).
Nếu hồng cầu giảm > 1 triệu hoặc Hct giảm > 10% cần truyền máu tươi hoặc hồng cầu Khối.
Điều trị suy thận: Trong giai đoạn đầu thường là suy thận chức năng, về sau là thực thể do tổn thương ống thận. Ngăn ngừa ngay từ đầu bằng cách điều chỉnh tốt huyết động. Trong trường hợp suy thận cấp cần sử dụng Manitol 20% truyền nhanh hoặc lasix để làm test bài niệu, có lúc cần dùng Lasix liều cao 0,5 - 1g/24 giờ. Nếu thất bại cần chạy thận nhân tạo, nhưng trong những trường hợp này tiên lượng thường rất nặng.
Hút dạ dày liên tục: Đây là một biện pháp rất hữu hiệu gíúp giảm tiết dịch vị, dịch tụy, giảm chướng hơi dạ dày; giúp tụy được nghỉ ngơi cho nên có tác dụng làm giảm đau rất tốt. Đây cũng là một phương tiện giúp theo dõi chảy máu dạ dày.
Điều trị tràn dịch màng phổi và suy hô hấp cấp: Nếu tràn dịch màng phổi nhiều cần dẫn lưu. Suy hô hấp cấp cần hổ trợ bằng thở máy, điều chỉnh dưới sự theo dõi khí máu.
Chống choáng: Nếu các biện pháp tích cực trên đã thực hiện đầy đủ nhưng tình trạng choáng vẫn xảy ra thì cần sử dụng đến các thuốc vận mạch và nâng huyết áp như: Dopamin ống 200mg có thể cho liều trung bình 10μg/Kg/ phút. Dobutamin có nhiều ưu điểm hơn dopamin, liều 5μg/kg/ph. Adrénalin và thậm chí cả Noradrénalin.
Thuốc giảm đau: Chỉ sử dụng khi hút dạ dày không làm giảm đau, có lúc đau quá làm bệnh nhân không chịu nổi có thể gây choáng do đau; vì vậy cần chống đau cho bệnh nhân bằng Dolargan 100mg, 2 - 3 ống/ngày hoặc Meperidin 100mg tiêm bắp
Điều chú ý là không dùng Morphin vì có thể gây co thắt cơ vòng Oddi. Có thể dụng xylocaine 2%, liều 0, 5 - 1 g hòa trong 500ml dung dịch glucose truyền tĩnh mạch hoặc phong bế quanh tụy.
Các thuốc ức chế men tuỵ: Thực tế cho thấy các thuốc ức chế men tụy như Traxylol, Zymogen hoặc chất ức chế yếu tố Kunitz (Inhibiteur de Kunitz) đều không có hiệu quả. Thuốc ức chế protease như apotinin, Gabexate chỉ có hiệu quả khi dùng rất sớm, nhất là để dự phòng. Hiện nay người ta sử dụng Somatostatine như Sandostatine, Octriotide liều 200 - 400μg/ng tiêm dưới da hoặc bơm mạch và sau đó truyền mạch bằng bơm điện, đã tỏ ra có hiệu quả trong việc ức chế tiết men tụy nhưng cần cho sớm.
Thuốc kháng đông: Về mặt lý thuyết có vẻ hợp lý trong bối cảnh viêm nhiễm quá nặng nề có nguy cơ gây ra hội chứng CIVD. Nhưng trong thực tế trong những trường hơp này xuất huyết tụy không nên sử dụng được thuốc kháng đông.
Thuốc ức chế gốc oxyde tự do: Theo cơ chế hiện nay trong viêm tụy cấp và vai trò của các gốc Oxy hóa tự do và các Peroxydes. H. Sanfey đã sử dụng Superoxide dimutase để ức chế các chất gốc này nhưng cho đến nay cho thấy chưa có hiệu quả mấy trên lâm sàng.
Kháng sinh: Viêm tụy cấp do giun và sỏi thường xảy ra và rất sớm, chủ yếu là Gr (-) đường ruột nhất là E. Coli nên cần cho ngay kháng sinh từ đầu. Trong viêm tụy cấp nặng cần phối hợp Aminoglucozide như Gentamycine 160mg/ngày với céphalosporine như cefotaxime 3g/ngày, hoặc ceftriazone 2g/ngày. Hoặc phối hợp giữa cephalosporine với quinolone như ciprofloxacine 1g/ngày, hoặc ofloxacine 400mg/ngày bằng đường tiêm tĩnh mạch.
Nếu nhiễm trùng kéo dài hoặc nghi ngờ có bội nhiễm kị khí thì phối hợp thêm métronidazole truyền tĩnh mạch 1g/ngày. Liệu trình thường là 10- 15ngày tùy theo loại vi trùng, mức độ tổn thương và diễn tiến của bệnh.
Trong viêm tụy cấp do rượu, nhiễm trùng thường chậm nên khi nhiễm trùng thường là rất nặng nên cũng cần phối hợp và phổ khuẩn rộng như đã nêu trên.
Kháng tiết acid HCL mạnh: Có thể dùng để ngăn ngừa do stress đồng thời cũng để ức chế tiết dịch vị và dịch tụy. Ranitidine 150 - 300mg hoặc Famotidine 20 - 40mg tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch, omeprazol 40mg/ng hoặc patoprazol 40mg/ng để duy trì pH dịch vị > 4.
Rửa phúc mạc: Kết hợp với các biện pháp điều trị nội khoa nói trên, rửa phúc mạc giúp loại bỏ các chất độc và vi trùng. Áp dụng vào giai đoạn đầu của viêm tụy cấp hoại tử, nó giúp làm giảm đau và giảm choáng, cải thiện tình trạng suy hô hấp, giúp giảm Amylase và lipase trong máu và trong nước tiểu, làm tăng calci máu. Cải thiện rối loạn nước và điện giải và cân bằng kiềm toan. Trong một số trường hợp có lợi cho những rối loạn ngoài tụy. Trong một nghiên cứu của Fagniez cho thấy nó giúp giảm được tỉ lệ bệnh suất và tử suất trong viêm tụy cấp nặng. Nhưng các biến chứng thứ phát như nhiễm trùng huyết, áp xe tụy thì không thay đổi mấy.
Chọc hút dưới sự hướng dẩn của siêu âm hoặc CT: Được dùng để điều trị ổ áp xe hoặc các nang giả tụy. Dưới sự hướng dẩn của siêu âm và CT xác định được ổ hoại tử, đưa kim vào chọc hút để loại bỏ mủ, vi trùng và các chất độc gây ra do viêm nhiễm trùng và hoại tử.
Điều trị ngoại khoa:
Trong trường hợp không có sỏi: Chỉ định phẫu thuật tùy thuộc vào kết quả của điều trị hồi sức và nội khoa. Trong trường hợp hồi sức không cải thiện hoặc chỉ thoáng qua rồi lại nặng. Mục đích là lấy bỏ mô tụy bị hoại tử, cầm máu và dẩn lưu. Có thể đi bằng đường bên, đường sau, hay đường trước xuyên qua phúc mạc.
Trong trường hợp có sỏi hoặc giun: Nếu viêm tụy cấp do giun trong giai đoạn sớm một vài ngày đầu thì có thể cho thuốc liệt giun tác dụng nhanh như lévamísole hoặc Pyrantel, Albendazole. Nếu thất bại có thể kéo giun qua đường nội soi hoặc phẫu thuật.
Nếu do sỏi nhất là khi sỏi có kích thước > 0, 5mm và kẹt vào cơ vòng Oddi thì lấy sỏi qua đường nội soi kết hợp với việc xẻ cơ vòng Oddi (Sphinterotomie), rồi kéo sỏi bằng Dormia hoặc bằng Ballon hoặc tán sỏi bằng máy cơ học rồi kéo sỏi bằng các phương tiện trên. Kết hợp với phẫu thuật cầm máu loại bỏ mô hoại tử hoặc ổ mủ. Có thể thực hiện mổ sớm 24 - 48 giờ đầu. Trong trường hợp có choáng cần nâng huyết áp trước khi mổ.