CHI TRÊN
- Dây
nách thường ở dưới mỏm cùng vai 6cm, do đó khi phẫu thuật, để tránh cắt phải
dây thần kinh, người ta thường rạch ở bờ trước trong cơ denta và dưới mỏm cùng vai 6cm.
- Nếu
đứt dây nách, cơ denta bị liệt và vai bị tê
- Vòng
nối quanh vai: do sự tiếp nối giữa động mạch dưới vai với động mạch vai trên và
vai xuống của động mạch dưới đòn
Vòng nối quanh ngực: do động mạch ngực ngoài, động mạch cùng
vai ngực nối với động mạch ngực
trong, động mạch gian sườn trên của động mạch dưới đòn.
Vòng nối với động mạch cánh tay: do động mạch mũ cánh tay trước
nối với động mạch mũ cánh tay sau
và động mạch cánh tay sâu của động mạch cánh tay.
* Hai vòng nối trên không tiếp nối với vòng nối dưới nên thắt động mạch nách ở khoảng giữa động
mạch mũ và động mạch dưới vai rất nguy hiểm.
- Bạch
huyết dưới đòn liên quan đến việc biểu hiện của các u ác tính trong nội tạng.
- Khi
gãy 1/3 giữa xương cánh tay thường gây tổn thương dây thần kinh quay
- Vùng
cẳng tay trước có nền là mặt trước xương quay, mặt trước màng gian cốt, mặt trước và mặt trong xương trụ.
Bên trong ngăn cách với vùng cẳng tay sau
bởi mỏm khuỷu và bờ sau xương trụ. Bên ngoài giới hạn bởi bờ trước xương quay. Giới hạn trong và giới hạn
ngoài không bắt chéo với các thần kinh
vận động nên có thể mổ vào cẳng tay
qua các đường này.
- Trong
phần lớn các trường hợp, bao hoạt dịch chung của các cơ gấp ngón liên tục với bao họat dịch ngón tay út và
bao gân cơ gấp ngón cái dài. Do đó, nhiễm trùng bao hoạt dịch ngón út có thể
lan tới ngón cái và ngược lại.
- Nên
chú ý rằng các thần kinh và mạch máu gan ngón không tiếp xúc với các xương đốt
ngón, mà tiếp xúc với bao xơ ngón tay. Cho nên khi rạnh dọc ngón tay trong phẫu
thuật, nên rạch ở phần da cạnh ngón tay tiếp xúc với xương để tránh làm tổn
thương mạch máu và thần
kinh.
CHI DƯỚI
- Trong
tư thế đứng, gai chậu trước trên nằm tương ứng với đốt sống cùng 1 và là điểm mốc
để đo chiều dài chi dưới. Gai chậu
sau trên tương ứng với đốt sống cùng 2, đó cùng là vị trí khớp cùng chậu.
- Nơi
cao nhất của mào chậu tương ứng với khoảng đốt sống thắt lưng 4, người ta thường dựa vào vị trí của mào chậu để
xác định đốt thắt lưng 4, trong thủ thuật
chọc dò tủy sống.
- Nếu
mất đi xương bánh chè, cơ tứ đầu đùi mất đi nơi tựa vững chắc và làm động tác duỗi gối yếu đi.
- Nhìn
chung, xương chày là xương chịu sức nặng ở vùng cẳng chân, xương lại có bờ trước và mặt trong nằm ngay dưới
da nên rất dễ bị tổn thương. Hơn thế nữa, nơi này không được cơ che
phủ nên khi tổn thương hay phẫu thuật, xương rất lâu lành.
- Nhìn
chung, so với xương chày, xương mác mỏng manh hơn nhiều nhưng do ít chịu sức nặng
nên ít khi gãy đơn thuần mà thường chỉ gãy kèm sau khi gãy xương chày. Gãy
xương mác kém quan trọng, trừ trường hợp gẫy ở mắt cá ngoài làm cho cổ chân bị
mất đi gọng kìm.
- Bao
khớp và các dây chằng ở mặt trước khớp hông thường dày hơn ở mặt sau, do đó khớp hông thường trật ra sau. Hơn thế nữa khi đùi ở tư thế gấp và
khép, dây chằng vòng ở tư thế gấp và khép, dây chằng vòng ở tư thế nghỉ làm cho
chỏm đùi cách xa ổ cối và càng làm cho khớp trật dễ dàng.
- Trong
động tác duỗi gối quá mạnh khi cẳng chân đang ở tư thế xoay ngoài hay xoay
trong, sụn chêm có thể bị tổn thương. Sụn chêm ít có mạch máu nuôi nên khi bị tổn
thương khó hồi phục và có thể trở thành một vật chèn không cho khớp gối hoạt động.
- Hai
dây chằng chéo rất chắc và đóng vai trò quan trọng trong việc giữ cho khớp gối khỏi trật theo chiều
trước sau. Đứt một trong hai dây chằng này, khi khám khớp gối ta sẽ có dấu hiệu ngăn kéo.
- Khi
thần kinh ngồi bị viêm, ấn dọc theo đường đi này, bệnh nhân sẽ có cảm giác đa nhói (dấu hiệu Valleix).
- Một
dị dạng hiếm gặp về động mạch ở mông: có sự tồn tại một động mạch rất lớn đi
song song với thần kinh ngồi thay thế cho động mạch đùi để cung cấp máu cho
toàn bộ chi dưới gọi là động mạch ngồi.
- Vùng
mông là một vùng rất quan trong, nhiều cơ,
mạch máu: thuận lợi cho việc tiêm
bắp thịt.
- Cơ
thắt lưng chậu: phần thắt lưng của cơ đi từ đốt sống T12 đến L4 tới mấu chuyển nhỏ, do đó mủ của những
apxe lao cột sống ở vùng này có thể theo cơ chảy xuống tận vùng bẹn. Khi cơ thắt
lưng chậu bị viêm, bệnh
nhân thường gấp đùi vào thân để tự giảm đau (dấu hiệu cơ thắt lưng-chậu)
- Ống
đùi là một điểm yếu của vùng bẹn.
Qua ống đùi các cơ quan trong ổ bụng
có thể đi ra ngoài tạo nên tình trạng bệnh lý gọi là thoát vị đùi.
- Thần
kinh bịt khi đi vào rãnh
bịt áp ngay sát xương, nên khi thoát vị lỗ bịt, thần kinh bịt bị chèn vào xương gây đau vùng bẹn và vùng đùi
trong.
- Da
và mỡ dưới da vùng cẳng chân trước mỏng và ít di động. Ở quanh mắt cá da được ít mạch máu cung cấp, vì vậy những vết thương nhiễm
trùng hoặc lở loét ở
vùng này thường chậm lành, nhất là những người lớn tuổi.
- Tĩnh
mạch hiển lớn đi từ bờ trong bàn chân đến trước mắt cá trong, và cùng thần kinh hiển lên đùi. Khi cần ta có
thể bộc lộ tĩnh mạch hiển lớn ở trước mắt
cá trong để tiêm truyền tĩnh mạch.
- Thần
kinh mác chung khi đi qua chỏm mác nằm ngay trên xương trong một ống hợp bởi xương và cơ mác dài, do đó
khi bị bệnh phong ta có thể sờ được thần
kinh này tại chỏm mác. Cũng
do thần kinh nằm sát xương nên khi bó bột
cẳng chân cần tránh bó quá chặt ở vùng chỏm mác gây chèn ép thần kinh.
- Tĩnh
mạch hiển bé đi từ cạnh ngoài bàn chân, sau mắt cá ngoài và theo bờ ngoài gân gót lên cẳng chân cùng với thần
kinh bắp chân, tĩnh mạch hiển bé sau
đó đổ vào tĩnh mạch khoeo. Khi máu ở tĩnh mạch này không lưu thông tốt sẽ gây nên tình trạng bệnh lý giãn tĩnh mạch ở bụng chân.
- Cơ
duỗi ngón chân ngắn nằm trên mạc sâu mu chân. Mạc nông và mạc sâu chia mu chân thành 2 khoang tế bào:
khoang dưới da nằm trên mạc nông, khoang
dưới mạc nằm giữa mạc nông và mạc sâu. Nhiễm trùng ở khoang nào sẽ chỉ khu trú trong khoang đó mà không
lan sang khoang khác.
ĐẦU - MẶT - CỔ
Khi há miệng quá to (lúc ngáp) chỏm xương hàm dưới thay vì nằm
dưới củkhớp xương thái dương (lúc há miệng vừa phải) lại nằm ra trước củ khớp
nênbị cản lại không ngậm miệng đươc nữa gây ra trật khớp thái dương - hàm dưới
DA ĐẦU
Vì da đầu có nhiều ý nghĩa thực tế và có liên quan nhiều đến
các lớp mạc ở đầu nên trước khi
trình bày các mạc ở da đầu, ta đề cập đến da đầu. Da đầu có 5 lớp, từ ngoài vào trong: da, mô liên
kết cứng chắc, mạc trên sọ (cân cơ chẩm trán),
mô liên kết lỏng lẻo và vỏ xương sọ.
1. Da
Da ở đầu dày nhất trong cơ thể, chứa nhiều tóc và tuyến bã nên
da đầu thường có u nang tuyến bã.
2. Mô liên kết cứng chắc
Lớp này có tác dụng như một cầu nối giữa da ở trên và cân cơ
chẩm trán ở dưới. Có nhiều mô xơ
nên rất chắc, trong có nhiều thần kinh và mạch máu, mà thành các mạch máu lại được giữ chăt bởi các mô xơ này nên chảy
máu khó cầm vì mạch máu không xẹp
được. Chảy máu ở lớp này cũng
khó lan tỏa. Nhiễm trùng ít sưng
nhưng rất đau.
3. Mạc trên sọ
Là một màng cân rất chắc, nối bụng chẩm với bụng trán của cơ
chẩm trán. Vết thương da đầu không
tạo ra khe hở nếu lớp này không bị cắt ngang (vì da được nối chắc vào cấu trúc này).
4. Mô liên kết lỏng lẻo
Lớp này rất mỏng manh, các tĩnh mạch liên lạc nối các xoang
tĩnh mạch trong hộp sọ với các tĩnh mạch da đầu xuyên qua vùng này. Các mạch
máu và thần kinh đến da đầu từ ổ mắt phải nằm một đoạn ngắn trong lớp này.
Ba lớp đầu tiên của da đầu có thể tách ra dễ dàng khỏi lớp
này. Máu hoặc mủ có thể tụ lại ở đây, và có thể lan tỏa cả vòm sọ, và được giới
hạn ở chổ bám của cơ trên sọ và mạc trên sọ. Tụ máu ở mắt (mắt đen) thường do chấn
thương mạnh tại chổ gây chảy máu dưới da, tụ vào mi mắt. “mắt đen” cũng có thể gây ra do chấn sọ
làm chảy máu vào lớp mô liên kết lỏng lẻo (do ảnh hưởng của trọng lực)
Do sự hiện diện của các tĩnh mạch liên lạc, mô liên kết lỏng lẻo
thường được gọi là “vùng nguy hiểm của da đầu”. Một định lý phẫu thuật cổ điển xác
định rằng “nếu không có các tĩnh mạch liên lạc, các vết thương da đầu mất đi
phân nửa sự quan trọng của nó”. ở trẻ con, màng cứng và vỏ xương sọ dính chặt
vào nhàu hơn là ở người lớn, nên vỡ vòm sọ có thể làm rách màng cứng và vỏ
xương sọ, làm máu chảy trong sọ và có thể đi qua chổ vỡ tụ lại ở lớp mô liên kết
lỏng lẻo của da đầu. Cho nên, không có dấy hiệu tăng áp lực nội sọ, trừ khi lớp
mô liên kết này đả đầy máu.
5. Vỏ xương sọ
Lớp vỏ xương này gắn lỏng lẻo vào bề mặt xương sọ, ngoại trừ
các đường khớp và hố thái dương. ứ đọng dịch dưới vỏ xương có thể bóc tách vỏ xương
dễ dàng, nhưng không thể vượt qua được các đường khớp. Do đó, các dịch tụ có
nguồn gốc dưới vỏ xương đều mang hình dáng của xương liên hệ.
- Động mạch thái dương nông: nằm bên trong tuyến mang tai, đi
lên ngang qua rễ của mỏm gò má. Ở đây có thể bắt được nhịp đập của động mạch
ngay trước tai.
CÁC NGHÀNH NỐI CỦA HỆ ĐỘNG MẠCH CẢNH
Trong 3 động mạch của hệ cảnh thì có thể thắt được động mạch cảnh
chung và đặc biệt là động mạch cảnh ngoài. Còn động mạch cảnh trong thì không thể
thắt được vì rất nguy hiểm cho sự cấp huyết của não.
Khi thắt động mạch cảnh chung, tuần hoàn phụ thành lập qua các
nhánh phụ sau:
* Ngoài sọ: giữa động mạch giáp trên và (thuộc động mạch cảnh
ngoài) và động mạch giáp dưới (thuộc
động mạch dưới đòn)
* Trong sọ: động mạch đốt sống.
Khi thắt động mạch cảnh ngoài, tuần hoàn phụ thành lập qua các
nhánh lớn của động mạch cảnh ngoài (các động mạch giáp trên, lưỡi, mặt, chẩm) nối
với các nhánh tương đương bên đối diện
Động mạch cảnh ngoài thường được thắt ở bên trên động mạch
giáp trên, ở chổ động mạch cảnh chung phân đôi ngay trên sụn giáp. Ở đây động mạch
cảnh ngoài phân biệt được với động mạch cảnh trong nhờ vào 3 đặc điểm: ở trước
hơn, ở trong hơn và có 6 nhánh bên (đặc điểm này quan trọng nhất).
Hai trường hợp dị dạng đặc biệt được phát hiện ở việt nam là
không có thân động mạch cảnh ngoài riêng biệt. Động mạch cảnh chung cho các
nhánh bên như các nhánh của động mạch cảnh ngoài và sau đó có nhánh vào sọ làm nhiệm
vụ của động mạch cảnh trong. Quan niệm thực hành cho rằng động mạch cảnh ngoài
là động mạch coa nhánh bên sẽ không còn đúng trong trường hợp dị dạng này.
XOANG CẢNH VÀ TIỂU THỂ CẢNH:
Ở tận
cùng chổ phân đôi, động mạch cảnh
cung có 2 cấu trúc đặc biệt là xoang cảnh và tiểu thể cảnh
* Xoang cảnh: phần cuối của động mạch cảnh chung phình ra khoảng
1cm đường kính, gọi là xoàn cảnh. Xoang cảnh đóng góp một phần trong cơ chế điều
hóa huyết áp, thành xoang co dãn nhiều, được phân phối bởi nhánh xoang cảnh của
thần kinh thiệt hầu, dẩn truyền các xung động của các áp thụ cảm
* Tiểu thể cảnh: thường nằm tại chổ hoặc gần chổ phân đôi của
động mạch cảnh chung, kế bên xoang
cảnh. Có từ 2 đến 5 sợi thần kinh đi vào cực trên của tiểu thể cảnh, thường là từ hạch cổ trên và thần kinh thiệt
hầu, có thể từ thần kinh lang thang và thần kinh hạ thiệt. Tiểu thể cảnh tác dụng
như một hóa thụ cảm: các sợi cảm giác của thần kinh thiệt hầu đáp ứng với sự thay
đổi nồng độ oxy trong máu.
- Tĩnh mạch góc đi vòng qua bờ trong ổ mắt, chung với động mạch
góc trên mỏm trán xương hàm trên, bên trong túi lệ. các nhánh phía sau tĩnh mạch
góc đi vào ổ mắt, nối với tĩnh mạch mắt. tĩnh mạch góc, tĩnh mạch mặt và tĩnh mạch
mắt không có van. Cho nên máu có thể đi từ tĩnh mạch mắt vào tĩnh mạch góc, hoặc
từ tĩnh mạch mặt và tĩnh mạch góc vào tĩnh mạch mắt, vào xoang tĩnh mạch hang
và các xoang tĩnh mạch khác trong sọ. Do đó, nếu một ổ nhiễm trùng tụ cầu bị
phá vỡ ở vùng mặt xung quanh mũi miệng có thể lan vào xoang hang gây nhiễm
trùng nặng. Xuất huyết dưới kết mạc mắt ở trẻ ho gà là một ví dụ khác cho thấy
sự thông nối giữa tĩnh mạch trong sọ và ngoài sọ qua tĩnh mạch mắt.
TĨNH MẠCH CẢNH NGOÀI:
Tạo
nên do sự hợp lưu của tĩnh mạch tai sau và
nhánh của tĩnh mạch sau hàm, tĩnh mạch cảnh ngoài đi chếch xuống dưới và ra
sau, bắt chéo cơ ức đòn chủm ngang với trung điểm của sương đòn và đổ vào tĩnh
mạch dưới đòn. Đường đi của tĩnh mạch này thể hiện bằng một đường thẳng nối từ
trung điểm của mỏm chủm và góc hàm dưới đến trung điểm của xương đòn. Tĩnh mạch
nằm trước lá nông của mạc cổ, phần bao cơ ức đòn chủm, vì vậy trong trường hợp
bị tăng áp lực tĩnh mạch cảnh ngoài, ví dụ suy tim, nó có thể phồng lên và thấy
ngay được dưới da.
- Thần kinh hoành: phát sinh từ một rễ chính là thần kinh gai
sống cổ C4 và hai rễ phụ là thần kinh gai sống cổ C3 và C5. Thần kinh hoành được
tạo thành ở bờ ngoài cơ bậc thang trước rồi đi xuống phía trước cơ này. Cắt thần
kinh hoành để điều trị (thí dụ: làm xẹp phổi,..) thường được thực hiện ở đoạn
này. Để chữa nấc, có thể lấy ngón tay ấn lên đường này để chẹn dây thần kinh
hoành
- Cấu tạo của răng: mỗi răng có mô liên kết đặc biệt là tủy
răng, phủ bởi 3 lớp mô canxi là
ngà răng, men răng và chất xương răng. Bên ngoài có thể có đá răng (vôi răng) do muối canxi của nước
bọt đọng lại.
- Phần mũi của hầu còn gọi là tị hầu nằm trên khẩu cái mềm và
sau ổ mũi, sau xoăn mũi dưới là lỗ
hầu của vòi tai hình tam giác, thông với hòm nhĩ cho nên nhiễm trùng phần mũi có thể lan đến hòm nhĩ (gây viêm tai giữa).
Quanh lỗ này, nhất là ở
trẻ con, có nhiều mô bạch huyết, tạo thành hạnh nhân vòi. Khi các mô này bị
viêm, có thể làm bít lỗ hầu vòi tai, gây rối loạn thính giác. Thành trên là vòm
hầu, nằm bên dưới thân xương bướm và phần nền xương chẩm. Ở đây có nhiều mô bạch
huyết kéo dài đến thành sau, gọi là hạnh nhân hầu, khi phì đại có thể làm ngạt
thở
- Hạnh nhân khẩu cái cùng với hạnh nhân lưỡi, hạnh nhân vòi và
hạnh nhân hầu tạo thành vòi bạch
huyết quanh họng (hay bị sưng tấy khi viêm họng).
- Ngách hình lê là một rãnh dài nằm bên ngoài rãnh thanh quản.
Trong ngách hình lê có các nếp gấp
thần kinh thanh quản. dị vật thường kẹt ở ngách hình lê.
- Tất cả các cơ nội tại của thanh quản, ngoại trừ cơ nhẫn giáp
đều do thần kinh thanh quản dưới cảu
thần kinh lang thanh chi phối. Vì vậy liệt thần kinh thanh quản dưới sẽ gây mất tiếng. Trong phẫu
thuật cắt bướu giáp nguy cơ làm tổn thương
dây thần kinh thanh quản rất cao, ảnh hưởng tới giọng nói sau phẫu thuật.
- Khí quản nằm trên đường giữa, hơi lệch sang phải (do cung động
mạch chủ đẩy), đến đốt sông N4 hoặc N5 thì chia làm hai phế quản chính trái và
phải. phế quản chính phải to hơn, chếch hơn và ngắn hơn phế quản chính trái. Do
đó dị vật thường rơi vào phế quản chính phải
TUYẾN GIÁP:
* Địa lý và chủng tộc ảnh hưởng đến trọng lượng tuyến giáp.
Tuyến giáp phụ nữ lúc hành kinh hay lúc có thai và cho con bú lớn hơn nam giới.
khi tuyến giáp phì đại tạo nên bướu giáp
* Mỗi thùy tuyến giáp tiếp xúc bên trong với sụn giáp, sụn nhẫn,
phần ngoài các sụn khí quản, cơ khít hầu dưới, thực quản (cho nên khi tuyến
giáp phì đại gây khó nuốt), thần kinh thanh quản quặt ngược và nhánh ngoài của thần
kinh thanh quản trên (khi mổ cắt thùy tuyến giáp, phải tránh gây tổn thương cho
các thần kinh này).
* Tuyến giáp được bọc bởi bao xơ, tạo nên do sự cô đặc của các
mô liên kết ngoại biên tuyến giáp. Bao xơ gắn vào mạc tạng bằng một lớp lỏng lẻo,
rất dễ bóc tách, có các mạch máu và thần kinh đi bên trong. Đặc điểm này được ứng
dụng trong phẫu thuật tuyến giáp. Ngoài ra tuyến giáp còn được cố định vào các
sụn kế cận bằng các dây chằng, do các dây chằng này, tuyến giáp cùng di động với
thanh, khí quản khi nuốt. điều này giúp chẩn đoán phân biệt bướu giáp với các
bướu cổ khác.
* Động mạch giáp dưới là nhánh của động mạch thân giáp cổ từ động
mạch dưới đòn, vào mặt sau mỗi thùy, chia làm 2 nhánh, cả 2 nhánh đều có thể nối
nhau ở đường giữa. thần kinh thanh quản quặt ngược có thể ở giữa, trước hoặc
sau hai nhánh này, nên khi kẹp động mạch này trong phẫu thuật cắt thùy tuyến
giáp phải chú ý đến thần kinh này.
- Xoang
hàm trên liên quan trực tiếp với răng cối lớn thứ nhất, do đó sâu răng có thể dẩn đến viêm xoang
- Xoang
bướm gồm 2 xoang năm trong xương bướm, thường không đối xứng với nhau và cách nhau bởi vách xoang bướm.
Mỗi xoang đổ vào phía sau ngách
mũi trên bởi một lỗ xoang. Do đó khi vỡ xương bướm máu sẽ chảy ra mũi.
- Vùng
nhỏ phía trên xoăn mũi trên, ở đó có các sợi thần kinh khứu giác gọi là vùng khứu. Khu này là khu phẫu thuật
nguy hiểm, vì nhiễm trùng có thể theo các
dây thần kinh khứu lên tới màng não.
- Vùng
niêm mạc mũi có nhiều tuyến niêm mạc, tế bào bạch huyết, nhiều mạch máu. Vì có nhiều mạch máu tạo thành điểm
mạch nên cũng dễ đưa đến chảy máy
mũi ở đây
- Động
mạch trung tâm võng mạc là một nhánh của động mạch mắt, theo dây thần kinh thị giác vào nhãn cầu chia
làm 2 nhánh trên và dưới, các dây này không
thông nối với nhau cũng
như với các nhánh khác. Đây là những động
mạch tận cùng, do đó nghẽn động mạch trung tâm võng mạc gây mù. Có thể soi đáy mắt để thấy tình trạng của võng
mạc và động mạch trung tâm võng mạc.
- Thủy
dịch được chứa trong tiền phòng và hậu phòng của nhãn cầu. thành phần thủy dịch
giống như huyết tương nhưng không có protein. Thủy dịch được tiết ra ở mỏm mi
vào hậu phòng, chui qua con ngươi để sang tiền phòng rồi chui vào góc mống mắt
– giác mạc để vào xoang tĩnh mạch củng mạc và đi theo các tĩnh mạch mi. Vì vậy
áp lực thủy tĩnh luôn không đổi. Nếu vì lý do nào đó mà làm tắc nghẽn sự lưu
thông thủy dịch thì áp lực sẽ tăng lên gây nên bệnh tăng nhãn áp.
- BỘ LỆ:
tuyến lệ; tiểu quản lệ; túi lệ; ống lệ mũi, trong trường hợp bị tắc ở một nơi nào đó trong các đường dẩn lệ,
nước mắt sẽ không chảy được vào mũi qua
ống lệ mũi làm cho luôn
luôn bị chảy nước mắt.
- Dái
tai không có sụn mà chỉ có mô sợi và mô mỡ và là nơi ta thường xỏ lỗ tai để đeo bông tai hay chọc kim thử thời
gian chảy máu. Sụn giúp loa tai giữ nguyên
vẹn hình dạng, nếu sụn bị tổn thương hay hủy hoại do nhiễm trùng, loa tai sẽ biến dạng.
- Nhìn
chung, ống tai ngoài đi từ ngoài vào theo hướng từ trước xuống dưới thành một
đường cong hình chử S; ở gần loa tai, nó cong lồi ra trước và đến màng nhĩ thì
cong lồi ra trước. vì vậy, ở người trưởng thành khi soi màng nhĩ, muốn nhìn thấy
màng nhĩ phải kéo loa tai lên trên và ra sau để làm giảm bớt độ cong này.
- Thành
trước ống tai ngoài liên quan với hố hàm ở phía trong và một phần của tuyến
mang tai ở phía ngoài. Vì vậy, một cú đấm vào cằm có thể làm cho lồi cầu xương
hàm dưới trật ra sau và làm vỡ thành trước tai ngoài và ngược lại một nhiễm
trùng ở ống tai ngoài có thể lan đến tuyến mang tai.
- Da của
ống tai ngoài liên tục với da loa tai và phủ mặt ngoài của màng nhĩ. Phần da
che phủ sụn có lông và các tuyến ráy tai. Da dính chặt vào sụn và xương nên nhọt
ở ống tai ngoài gây đau đớn dữ dội.
- Cảm
giác ống tai ngoài được chi phối bởi thần kinh ống tai ngoài thuộc thần kinh
hàm dưới và nhánh tai thuộc thần kinh lang thang. Vì vậy, những bệnh của răng
dưới và lưỡi nơi chịu sự chi phối của thần kinh hàm dưới cũng có thể gây cảm giác đau ở ống tai
ngoài và những dị vật ở ống tai ngoài có thể kích thích thần kinh lang thang
gây nên phản xạ buồn nôn và ho.
- TAI
GIỮA: các thành của hòm nhĩ
1. Thành trần: liên quan đến hố sọ giữa, viêm tai giữa (VTG)
có thể gây viêm màng não.
2. Thành tĩnh mạch cảnh (hay sàn): liên quan đến TM cảnh trong
3. Thành mê đạo: liên quan trực tiếp đến hệ thống mê đạo của
tai trong gồm ụ nhô, cửa sổ ốc
tai, cửa sổ tiền đình, lồi ống thần kinh mặt, lồi ống bán khuyên ngoài, mỏm hình ốc. Như vậy hòm
nhĩ liên quan mật thiết với thần kinh
mặt, do đó khi viêm tai giữa, thần kinh có thể bị tổn thương và làm liệt mặt.
4. Thành chủm hay thành sau của hòm nhĩ gồm ống thông hang,
hang chũm, lồi ống thần kinh mặt,
gò tháp, lỗ nhĩ ông thừng nhĩ. Hang chũm là một phòng lớn nằm trong mỏm chũm
xương thái dương. Hang chủm thông với phía sau và phía dưới với vô số các xoang
chủm. Xoang chủm là những hốc xương nhỏ hơn hang chũm xếp thành nhiều nhóm rãi
rác trong mỏm chủm và đục thủng mỏm này làm chảy mũ ra ngoài (viêm tai xương chủm
thể xuất ngoại).
5. Tành động mạch cảnh hay thành trước: vì vậy khi ta bị VTG
có thể bị đau tai theo nhịp đập của động mạch, và nguy cơ cao bị nhiễm trùng
huyết khi bị VTG
6. Thành màng hay thành ngoài: màng nhĩ
- MÀNG NHĨ: nếu ta vạch 2 đường, một theo cán búa và một thẳng
góc với đường trên qua rốn màng
nhĩ, ta có thể chia màng nhĩ thành 4 khu:
* Hai khu trên, nhất là khu trên sau, liên quan rất chặt với
các xương con và dây thừng nhĩ
* Hai khu dưới, đặc biệt là khu dưới sau không liên quan với
cơ quan quan trọng nên thường là
nơi rạch tháo mủ khi hòm nhĩ ứ mủ.
- Vòi tai chỉ được mở ra khi ta nuốt hoặc ngáp dưới tác động của
cơ căng màn khẩu cái và cơ vòi hầu làm cho áp lực khí trời ở hòm nhĩ và tai
ngoài cân bằng. khi hạch hạnh nhân vòi bị viêm sẽ làm cản trở việc mở vòi tai
và làm tai nghễnh ngãng. Ưng dụng khi đi cáp treo, máy bay bị ù tai ta có thể
nhai, nuốt gì đó hoặc ngáp.
- Khám các các bệnh nhân bị viêm dây thần kinh sinh ba, ta có
thể ấn tìm ba điểm đau của mặt là:
* Lỗ trên ổ mắt (nhánh ngoài của dây thần kinh trên ổ mắt, V1)
* Lỗ dưới ổ mắt (thần dưới ổ mắt, V2)
* Lỗ cằm (thần kinh cằm, V3)
- Thần
kinh mặt là một dây thần kinh hỗn hợp có nhiều chức năng, trong đó gồm các sợi:
* Vận động: xuất phát từ hai nhóm nhân thần kinh mặt đi đến vận
động các cơ bám da mặt và cổ biểu hiện tình cảm trên nét mặt. Khi liệt thần
kinh mặt chặng trung ương, thường nhóm nhân thần kinh mặt trên vẫn còn nên ở
bên mặt bị liệt mắt vẫn nhắm được và các nếp ngang trán vẫn nhăn được, trong
khi liệt mặt ở chặng ngoại biên thì nửa mặt cùng bên bị liệt hoàn toàn.
- Thần
kinh thiệt hầu hay thần kinh IX là một dây hỗn hợp, gồm có:
* Các sợi vận động tới các cơ ở hầu
* Các sợi cảm giác và vị giác 1/3 sau lưỡi. Vì vậy thần kinh
thiệt hầu là dây chính trong các
phản xạ nôn và nuốt
* Các sợi đến xoang động mạch cảnh có chức năng trong các phản
xạ điều hòa huyết áp và hô hấp
* Các sợi đối giao cảm đến bài tiết tuyến mang tai
- Thần
kinh lang thang như tên gọi có một lộ trình dài nhất trong 12 dây thần kinh sọ và diện phân phối rất rộng thuộc
phần thần kinh đối giao cảm gồm có:
* Các sợi vận động đi đến các cơ ở hầu và thanh quản.
* Các sợi đối giao cảm là cấu tao chủ yếu của hai dây thần
kinh X đi đến phân phối cho tất cả
các tạng ở ngực, bụng (trừ các tạng niệu dục dưới phúc mạc).
* Qua nhánh loa tai (có thể giải thích tại sao khi ngoáy tai
thường có phản xạ ho).